VTVcab ON đạt 8 triệu lượt tải: Bất ngờ của làng giải trí số Việt

VTVcab ON đạt 8 triệu lượt tải: Bất ngờ của làng giải trí số Việt

Trong thời đại Internet bùng nổ, việc những thế hệ Millennials, GenZ “ăn ngủ” cùng smartphone, máy tính bảng, smart TV…đã tạo ra sự thay đổi lớn trong phương thức tiếp cận thông tin và giải trí.

Theo báo cáo Cục Phát thanh Truyền hình & Thông tin điện tử (PTTH&TTĐT – Bộ TT&TT), năm 2020, cả nước có 35 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền với 13,8 triệu thuê bao phát sinh cước phí hàng tháng. Doanh thu năm 2019 của toàn thị trường truyền hình trả tiền tại Việt Nam ước đạt 8.600 tỷ đồng. Trong đó, lượng thuê bao truyền thống của ngành truyền hình tăng trưởng chậm ở mức 5-6% và doanh thu cũng chậm không kém 6-7%. Các con số trên cho thấy, thị trường truyền hình truyền thống về cơ bản đã dần bão hòa.

VTVcab ON có mặt thị trường OTT vào tháng 7/2019

Ngược lại, truyền hình Internet OTT (Over The Top –ứng dụng và dịch vụ cung cấp nội dung cho người sử dụng dựa trên các nền tảng Internet) có tốc độ tăng trưởng như vũ bão tại Việt Nam. Thống kê của Cục PTTH&TTĐT cũng cho thấy, số thuê bao sử dụng ứng dụng OTT phát triển với tốc độ hơn 50%/năm và không ngừng gia tăng. Tổ chức nghiên cứu Muvi đưa ra dự báo doanh thu thị trường OTT Đông Nam Á giai đoạn 2020-2021 có thể đạt đến mức 650 triệu USD/năm.

Chiếc bánh OTT béo bở trị giá hàng trăm triệu USD khiến hàng loạt doanh nghiệp cả nội lẫn ngoại đều “thèm khát”. Trên thị trường OTT diễn ra cuộc chiến khốc liệt nhằm giành miếng bánh của riêng mình. Việt Nam hiện có 35 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phát thanh và truyền hình trả tiền. Trong đó, 20 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ nội dung truyền hình trên Internet. Nổi bật lên trong số các doanh nghiệp này phải kể đến VTVcab ON.

VTVcab ON là ứng dụng cung cấp dịch vụ xem truyền hình trực tuyến và video theo yêu cầu được phát triển bởi VTVcab và Công ty cổ phần Truyền thông Đa phương tiện Thủ Đô. Ứng dụng VTVcab ON chạy trên 4 nền tảng: Smart TV, Smart Phone, Android box và website.

Mới ra mắt vào thời điểm 25/07/2019, chỉ sau chưa đầy 2 năm, VTVcab ON đã trở thành 1 hiện tượng trong làng giải trí số. VTVcab ON hiện đã có gần 8 triệu lượt tải (mobile 3,5 triệu và Smart TV 4,3 triệu), lượng người sử dụng hàng tháng khoảng 500.000 người. Bình quân mỗi ngày có khoảng 1 triệu lượt xem trên ứng dụng. Đây là một con số bất ngờ đối với một dịch vụ OTT nội địa.

VTVcab ON chạy đồng nhất với chất lượng cao và rõ nét trên 4 nền tảng: Smart TV, Smart Phone, Android box và website

Lý giải cho thành công đặc biệt của VTVcab ON phải kể đến nội dung trên các kênh và VOD (mảng nội dung theo yêu cầu) đầy đủ, đặc sắc và đa dạng bậc nhất tại Việt Nam. Số kênh truyền hình trên hệ thống VTVcab ON lên tới 200 kênh. Duy nhất trên VTVcab ON có đầy đủ các nhóm kênh theo vùng miền như nhóm kênh SCTV, nhóm kênh Vĩnh Long, nhóm kênh HTV, nhóm kênh truyền hình của từng địa phương,… đáp ứng toàn diện nhất nhu cầu của mọi khán giả.

VTVcab ON sở hữu rất nhiều VOD mua độc quyền và tự sản xuất với hàm lượng sáng tạo cao. Hàng nghìn nội dung về thể thao, phim bom tấn Hollywood, Hàn Quốc, Trung Quốc, sự kiện hot, hoạt hình, gameshow thiếu nhi… được cập nhật tới từng phút với hơi thở của thời đại. Các nội dung này đều được kiểm duyệt kỹ càng (đặc biệt là nhóm kênh thiếu nhi), mua và bảo vệ bản quyền hợp pháp bằng công nghệ bảo vệ bản quyền số Sigma Multi-DRM – một giải pháp đã được Catersian chứng nhận đạt chuẩn bảo mật toàn cầu.

Những sự kiện thể thao đỉnh cao trên thế giới như giải đấu bóng đá La Liga, Bundes Liga, Ngoại hạng Anh, UEFA Champion League, giải quần vợt ATP… được VTVcab ON truyền hình trực tiếp mượt mà với độ trễ cực thấp – chỉ 3s so với mức 30-70s của các dịch vụ truyền hình OTT khác, ghi điểm mạnh mẽ tới khách hàng và thu hẹp khoảng cách giữa truyền hình OTT với truyền hình số DVB-T2.

VTVcab ON có số lượng kênh truyền hình và video theo yêu cầu đặc sắc và đầy đủ bậc nhất trên thị trường OTT Việt Nam

Khách hàng sử dụng dịch vụ có thể xem các nội dung trên VTVcab ON đồng nhất với chất lượng cao và rõ nét trên các nền tảng: Smart TV, Android TV box, Website.

Trong một thị trường OTT còn non trẻ, đặc biệt đang bị tác động tiêu cực của nạn vi phạm bản quyền, trốn thuế, rất cần có thêm những ứng dụng nội dung số có nội dung chất lượng cao, chuyên nghiệp, kiểm duyệt kỹ càng, tuân thủ đúng luật pháp Việt Nam như VTVcab ON.

Chỉ có dùng công nghệ mới ngăn chặn được nạn “ăn cắp” chất xám công khai trên mạng

Chỉ có dùng công nghệ mới ngăn chặn được nạn “ăn cắp” chất xám công khai trên mạng

Tâm lý nghe nhạc miễn phí sẽ giết ngành công nghiệp âm nhạc

Nhiều năm về trước, hàng trăm website nhạc số rầm rộ ra đời và chừng ấy số lượng website đóng cửa. Lý do là bởi nạn xem đĩa CD lậu, nghe và tải nhạc “chùa” trực tuyến. Thời điểm đó, không mấy khán giả nghĩ tới việc bỏ tiền túi hàng tháng cho món ăn tinh thần này. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, đĩa CD lậu đã lỗi thời nhưng vi phạm bản quyền nhạc số (cụ thể là nghe và tải nhạc “chùa”) vẫn ăn sâu bám rễ vào một bộ phận khán thính giả.

Theo Liên đoàn Công nghiệp Ghi âm Quốc tế (IFPI), vi phạm bản quyền nhạc số trên mạng có nhiều hình thức. Bao gồm: Tạo các cơ sở dữ liệu âm nhạc trên các website hoặc các giao thức truyền dữ liệu FTP (File Transfer Protocol); tải lên và tải xuống file nhạc qua các nhóm trên Internet hoặc chia sẻ nhạc qua mạng lưới ngang hàng Peer-to-peer (P2P). Hành vi vi phạm bản quyền gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới tất cả các bên tham gia sản xuất âm nhạc bao gồm: ca sĩ, nhạc sĩ, nền tảng cung cấp nhạc có bản quyền.

Trang nhacso.net đóng cửa sau 10 năm hoạt động

Khán giả không chịu bỏ tiền nghe nhạc, nền tảng nhạc số không có nguồn thu, nhạc sĩ không có nhuận bút, ca sĩ thể hiện không có tiền. Tất cả các bên tham gia vào quá trình sản xuất và phân phối nhạc đều không sống nổi bằng nhạc số. Trên thế giới, trước đây, ca sĩ, nhạc sĩ sống chủ yếu bằng việc bán đĩa nhạc vật lý và sau này là nhạc số. Còn ở Việt Nam, ca sĩ sống bằng việc đi diễn tại các phòng trà, nhãn hàng, show âm nhạc. Một nhạc sĩ đã phải thốt lên rằng làm nhạc ở Việt Nam như “làm từ thiện”.

Các website nhạc số không chỉ trông chờ vào nguồn thu từ phí dịch vụ hàng tháng của khách hàng. Website nhạc số yêu cầu trả phí đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam là nhacso.net. Năm 2005, nhacso.net là nền tảng có bản quyền đầu tiên ra đời. Đây là dấu mốc quan trọng trên thị trường nhạc trực tuyến trong nước. Nhưng sau hơn 10 năm hoạt động, tháng 10 năm 2016, website này đã chính thức đóng cửa. Sự kiện này cho thấy các website muốn sống tốt bằng nguồn thu trả phí là rất khó khăn và để thay đổi thói quen nghe nhạc “chùa” thực sự không dễ dàng.

Những tia sáng trên thị trường nhạc số

Sau nhiều năm, thị trường nhạc số đã bắt đầu có những vệt sáng. Sự chuyển mình, dù còn chậm, nhưng rất tích cực. Điểm sáng đầu tiên phải kể đến là sự lên tiếng của nhiều nghệ sĩ về vấn nạn bản quyền. Điển hình là ca sỹ Mỹ Tâm, nữ ca sĩ gốc Đà Nẵng rất quyết liệt trong vấn đề bảo vệ bản quyền tác phẩm của mình.

Cô thắng thắn chia sẻ với báo chí: “Bản thân tôi thấy các trang nhạc online Việt Nam hiện tại không coi trọng bản quyền của nghệ sĩ. Tôi rất buồn khi phải chứng kiến điều này khi mình đang sống trong thời đại văn minh. Vì vậy tôi chấp nhận là người duy nhất đứng ngoài việc này chứ không đồng tình đi theo cái sai được dù có thế nào“.

Nữ ca sĩ Mỹ Tâm tiên phong trong bảo vệ bản quyền âm nhạc

Tất nhiên, không phải nghệ sĩ nào cũng có lượng người hâm mộ hùng hậu, tên tuổi đã thành thương hiệu và vị trí vững chắc như Mỹ Tâm để có thể nói không với nghe và tải nhạc lậu. Nhiều nghệ sĩ, đặc biệt là các ca sĩ trẻ, vẫn phải dựa vào các website nghe nhạc miễn phí để quảng bá sản phẩm của mình đến với công chúng. Dù vậy, đây vẫn là tín hiệu rất tích cực và cần lan toả nhiều hơn nữa.

Điểm sáng thứ hai là sự xuất hiện của các ông lớn trong lĩnh vực phân phối nhạc số như Spotify và Apple Music tại Việt Nam. Apple Music xuất hiện tại Việt Nam sớm hơn (năm 2015) nhưng chưa thực hiện tạo được dấu ấn rõ nét trên thị trường như Spotify (xuất hiện ở Việt Nam năm 2018).

Spotify thổi làn gió mới vào thị trường nhạc số trả tiền của Việt Nam

Spotify là ứng dụng nghe nhạc số, ra mắt lần đầu tại Thụy Điển năm 2008. Ứng dụng sở hữu hơn 40 triệu bài hát đều có bản quyền. Theo Wikipedia, kết thúc năm 2020, Spotify có hơn 345 triệu người dùng thường xuyên, trong đó gồm 155 triệu người dùng trả phí. Nền tảng này phân chia khoảng 70% tổng doanh thu cho người sở hữu bản quyền nội dung. Spotify nổi trội so với nhiều trang web nhạc số nội địa khác bởi âm nhạc chất lượng cao, có bản quyền, giao diện đơn giản, thuật toán cá nhân hoá danh sách phát nhạc và phí hàng tháng khá thấp, chỉ 59.000 đồng. Sự xuất hiện của các nền tảng nghe nhạc nước ngoài đã thổi làn gió mới cho thị trường nhạc số Việt Nam.

Công nghệ sẽ giải quyết triệt để vấn nạn vi phạm bản quyền

Những dấu hiệu tích cực như có nhiều nghệ sĩ lên tiếng, các nền tảng nước ngoài tham gia thị trường Việt Nam đã phần nào góp phần giảm bớt vấn nạn vi phạm bản quyền. Tuy vậy, nếu chỉ trông chờ vào các yếu tố này thì chưa đủ bởi việc tìm kiếm, nghe và tải nhạc số “chùa” vẫn còn quá dễ, quá tiện.

Trước thực trạng vi phạm bản quyền nội dung trên không gian mạng, ngày càng tinh vi và khó kiểm soát, vào cuối năm 2020 Cục Phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử, Bộ Thông tin và Truyền thông đã công bố đang triển khai phối hợp cùng các đơn vị khác để thành lập Trung tâm bảo vệ bản quyền nội dung số, nhằm bảo vệ bản quyền nội dung trên môi trường số. Cuộc chiến bản quyền sẽ là cuộc chiến lâu dài, thế nên việc bảo vệ bản quyền sẽ cần sự phối hợp khăng khít giữa các cơ quan quản lý nhà nước.

Dự kiến trong quý II/2021, Trung tâm bảo vệ bản quyền nội dung số sẽ được thành lập. Trung tâm mới được kì vọng sẽ bảo vệ bản quyền một cách hiệu quả, đảm bảo công bằng cho các đơn vị sản xuất nội dung.

Tuy nhiên, bên cạnh sự quyết liệt của các cơ quan chức năng thì chính các đơn vị sở hữu bản quyền cũng cần nỗ lực tìm kiếm phương án để chủ động ngăn chặn vấn nạn vi phạm bản quyền.

Ông Nguyễn Ngọc Hân, Tổng giám đốc Thudo Multimedia

Bên cạnh những hỗ trợ từ chính sách của cơ quan nhà nước, thì hiện nay đã có những giải pháp công nghệ cho phép các nhà sở hữu nội dung có thể chủ động chọn cho mình những giải pháp phù hợp để bảo vệ “đứa con” của mình.

Ông Nguyễn Ngọc Hân – Tổng Giám đốc Công ty CP Truyền thông Đa phương tiện Thủ Đô (Thudo Multimedia) chia sẻ: “Các đơn vị sản xuất và phân phối nội dung cần chủ động bảo vệ thành quả lao động của mình trên môi trường số. Hiện chúng tôi đã phát triển giải pháp công nghệ Make in Vietnam với tên gọi Sigma Multi-DRM giúp các nhà sản xuất và phân phối nội dung số bảo vệ bản quyền. Hệ thống Sigma Multi-DRM lý tưởng bảo đảm được tính linh hoạt, hoàn toàn minh bạch với người dùng và những rào cản phức tạp để ngăn chặn việc sử dụng bản quyền trái phép.”

Sigma Multi-DRM là giải pháp bảo vệ bản quyền Make in Vietnam được vinh danh tại Giải thưởng Chuyển đổi số Việt Nam 2020. Sigma Multi-DRM đã vượt qua những bài kiểm định gắt gao của Cartesian – tổ chức uy tín hàng đầu thế giới, tuân thủ hoàn toàn các yêu cầu bảo mật của các nhà sản xuất nội dung lớn, giảm thiểu rủi ro về vấn nạn ăn cắp bản quyền nội dung trên mạng.”

Bảo vệ bản quyền vẫn luôn là vấn đề khiến các nghệ sĩ trăn trở. Giải pháp bảo vệ bản quyền bằng công nghệ giúp các nghệ sỹ tập trung toàn bộ tâm huyết vào sản xuất âm nhạc, đảm bảo nhận về những giá trị đúng với chất xám bỏ ra.

Nghe nhạc trực tuyến trở thành phương thức giải trí phổ biến của người Việt

Nghe nhạc trực tuyến trở thành phương thức giải trí phổ biến của người Việt

Trong một khảo sát gần đây do Q&Me thực hiện về hành vi nghe nhạc của người Việt Nam, khảo sát được thực hiện với 1.500 người từ độ tuổi 18 tới 44. Theo kết quả khảo sát, nghe nhạc là phương thức giải trí phổ biến nhất, các kênh nghe nhạc cũng trở nên linh hoạt và đa dạng hơn nhờ vào kết nối mạng ngày càng trở nên rộng rãi.

Trong 1.500 người được khảo sát có 64% là nam giới và 36% nữ giới, 28% ở Hà Nội, 28% ở Thành phố Hồ Chí Minh và còn lại ở các tỉnh khác. Độ tuổi được chia đều theo 4 nhóm nhóm dưới 18 tuổi, nhóm 19 – 22 tuổi, nhóm 23 – 29 tuổi và nhóm từ 30 trở lên.

Kết quả khảo sát cho thấy, về mức độ thường xuyên nghe nhạc,75% số người được khảo sát cho biết nghe nhạc hàng ngày, và là hình thức giải trí chính. 57% nghe vài lần một ngày, 19% nghe một lần một ngày, 12% nghe 4 – 6 lần/một tuần. Trong khi đó 80% số người được khảo sát nghe nhạc dưới 1 tiếng, trong khi đó khoảng 1/5 số người nghe nhạc rất nhiều từ 1 giờ trở lên.

Đối với thể loại nhạc theo quốc gia, thì phổ biến nhất là nhạc Việt Nam với 95% người nghe, sau đó là nhạc tiếng Anh của Mỹ chiếm 28% và nhạc Hàn Quốc chiếm 27%, tiếp theo sau là nhạc Trung Quốc, Nhật, Anh và châu Âu nói chung, Nhật các nước châu Á khác và nhạc Latin.

Đối với dòng nhạc, thì phổ biến nhất đương nhiên là nhạc Pop với 44% người nghe, sau đó là nhạc EDM/Dance với 33%, nhạc Hiphop/Rap với 29%, Bolero 28%, Rock 20%, Cổ điển 17%, R&B/Soul 12%, Country 11%, Jazz 11%, các thể loại khác chung khoảng 27%.

Mọi người thường nghe nhạc vào thời gian lướt mạng chiếm tới 50%, thời gian làm việc chiếm 44%, làm việc nhà chiếm 35%, chỉ thuần túy nghe nhạc chiếm 28%, khi học chiếm 26%, khi di chuyển chiếm 26%, khi đọc sách và nghe nhạc đều chiếm tới 12%.

Một thông số đáng lưu ý đó là thiết bị sử dụng đề nghe nhạc. Có tới 93% số người sử dụng điện thoại di động để nghe nhạc, trong khi chỉ có 34% người sử dụng máy tính xách tay, 31% số người sử dụng tivi, 17% sử dụng máy tính bảng, chỉ còn 10% số người khảo sát sử dụng máy nghe nhạc MP3/MP4 một thiết bị vô cùng phổ biến trong khoảng 10 năm trước, và 7% vẫn tiếp tục duy trì sử dụng radio.

Các phương tiện nghe nhạc ngày càng phụ thuộc nhiều vào Internet

Việc sử dụng các thiết bị điện tử để nghe nhạc cũng làm thay đổi thói quen lựa chọn kênh để nghe nhạc của người Việt. YouTube hẳn nhiên là kênh được nhiều người sử dụng nhất chiếm tới 86%, sau đó là Zing với 59%, Nhaccuatui chiếm 34%, Facebook chiếm 23%, Spotify một ứng dụng có bản quyền, người dùng phải trả tiền nổi lên ở Việt Nam khoảng 3 năm nay chiêm 14%, Apple chiếm 8%, sau đó là một số ứng dụng khác chiếm dưới 5%.

Điều gì khiến cho người sử dụng lựa chọn các ứng dụng để nghe nhạc? Ba yếu tố chính là chất lượng âm nhạc, sự đa dạng và việc cho tải xuống các bản nhạc là quan trọng nhất. Chất lượng âm nhạc là yếu tố hàng đầu được quan tâm chiếm tới 70%, sau đó là sự đa dạng của chủng loại âm nhạc chiếm tới 50%. Tuy hiện nay việc nghe nhạc online đã rất phổ biến, nhưng khả năng được tải nhạc, hay được nghe khi không kết nối cũng chiếm tới 43%. Tiếp theo đó là tính năng mang nhiều tính cá nhân hóa, tạo được danh sách nhạc cá nhân chiếm 26%, không hoặc ít quảng cáo chiếm 22%, tính phí hợp lý chiếm 18%, tốn ít dung lượng nghe nhạc chiếm 15% và cuối cùng là giao diện hấp dẫn chiếm 13%.

Trong các nghệ sĩ Việt thường được nghe nhất, không bất ngờ đó chính là Sơn Tùng MTP, nghệ sĩ có số lượng người hâm mộ trẻ đặc biệt đông đảo ở Việt Nam, thường xuyên giành được số 1 treding YouTube ngay sau khi ra sản phẩm âm nhạc mới. Sơn Tùng chiếm tới 41% số người khảo sát lựa chọn, vị trí thứ hai là của Jack chiếm 34%. Sau đó là những nghệ sĩ khá lâu năm và có số lượng người hâm mộ lớn ở Việt Nam như Mỹ Tâm chiếm 17%, Đan Trường 12%, Hồ Quang Hiếu 10%, Đàm Vĩnh Hưng 9%, Cẩm Ly 8%, Lê Bảo BÌnh 8%, Quang Lê 7% và Lệ Quyên 6%.

Các nghệ sĩ quốc tế thì nghệ sĩ Mỹ chiếm tới 55%, nghệ sĩ Hàn chiếm 26% và nghệ sĩ Anh chiếm 19%. Trong đó Taylor Swift chiếm 20%, Black Pink 18%, BTS 17%, Alan Walker 16%, Westlife 9%, Justin Bieber 8%, Maroon 5 chiếm 8%, Katy Perry 8%.

Câu chuyện “50 sắc thái” và sự nở rộ của xu hướng tự xuất bản sách

Câu chuyện “50 sắc thái” và sự nở rộ của xu hướng tự xuất bản sách

Trong đại dịch, doanh số bán sách của nhiều nhà xuất bản sụt giảm vì phải đóng cửa nhiều hiệu sách, nhưng số lượng sách phát hành qua các kênh điện tử lại tăng lên. Và không chỉ trong đại dịch, xu hướng tự xuất bản sách đang ngày càng nở rộ….

Ngay cả trước đại dịch Covid-19, nhiều thay đổi đã xảy ra trong ngành xuất bản sách. Một số tác giả chỉ trích tình trạng các nhà văn bình thường, mới vào nghề khó có thể xuất bản và kiếm sống vì một số ít các tác giả đình đám luôn chiếm lĩnh thị trường và được các nhà xuất bản ưu ái.

Thành công rực rỡ của “50 sắc thái”

50 Shades of Grey – hay chính là 50 sắc thái – lần đầu tiên được tự xuất bản dưới dạng tiểu thuyết của người hâm mộ và sau đó được một nhà xuất bản lớn chọn mua. Thành công rực rỡ này của 50 sắc thái là một yếu tố thay đổi cuộc chơi xuất bản, khi nổ ra các cuộc thảo luận về những thể loại văn học được cho là không có khả năng tạo ra một lượng lớn khán giả, nhưng thực tế khi cuốn sách đến được với độc giả dưới dạng tự xuất bản, đã được đón nhận nhiệt liệt. Chính vì vậy, câu chuyện về 50 sắc thái cũng tạo ra các cuộc tranh luận về tương lai của xuất bản độc lập – hay xu hướng tự xuất bản – nói chung.

50 Shades of Grey – hay chính là 50 sắc thái – lần đầu tiên được tự xuất bản dưới dạng tiểu thuyết của người hâm mộ và sau đó được một nhà xuất bản lớn chọn mua

Lần đầu tiên tác giả E.L. James đã được đề nghị trả tới 5 triệu USD cho bản quyền bộ phim đối với cuốn tiểu thuyết tự xuất bản của bà, Fifty Shades of Grey. James, một cựu giám đốc điều hành truyền hình có trụ sở tại London, đã xuất bản phần đầu tiên của bộ ba phim Fifty Shades dưới dạng sách điện tử. Cuốn sách không hề được phân phối bởi một nhà xuất bản truyền thống nào ở Mỹ, bộ truyện đã được chú ý thông qua truyền miệng và Facebook. James sau đó đã ký một hợp đồng sách trị giá bảy con số với Vintage. Chẳng bao lâu, Fifty Shades of Grey đã lọt vào danh sách sách điện tử của New York Times và trở thành một trong các cuốn sách bán chạy nhất.

Trong bối cảnh ngành xuất bản đang chuyển mình, một số tác giả thực sự cảm thấy sự thôi thúc thử nghiệm cách truyền tải tác phẩm của mình đến độc giả, bao gồm các hình thức sản xuất sách mới lạ, độc lập với những “người gác cổng” xuất bản truyền thống – chính là các nhà xuất bản truyền thống.

Sách tự xuất bản tăng cao trong đại dịch COVID-19

Trong thời gian đại dịch, phải sống và sinh hoạt trong các biện pháp kiểm soát đại dịch, thời gian ở nhà nhiều, một số người đã dành nhiều thời gian hơn cho việc đọc sách. Nhưng ai được lợi từ xu hướng đọc sách tăng lên rõ rệt? Giám đốc điều hành Amazon Jeff Bezos đã có giá trị tài sản ròng của mình tăng gấp đôi lên hơn 200 tỷ USD trong năm 2020. Trong khi đó, nhiều nhà bán lẻ sách nổi tiếng phải đóng cửa các hiệu sách trên khắp đất nước.

Trong bối cảnh này, xu hướng tự xuất bản sách trên các nền tảng điện tử càng có sân chơi nở rộ. Trước nay, việc tự xuất bản một cuốn sách đôi khi gặp phải những kỳ thị, rằng cuốn sách đó đã từng bị các nhà xuất bản truyền thống từ chối, vì thế mới phải … tự xuất bản. Hơn nữa, sách tự xuất bản có khả năng thiếu sự kiểm soát và chỉnh sửa chất lượng của các nhà xuất bản truyền thống. Tuy nhiên, điều đó ngày càng bị lu mờ khi xu hướng tự xuất bản lên ngôi và được độc giả đón nhận. Thậm chí, một số “nhà tự xuất bản” hiện cũng thuê cả biên tập viên để kiểm soát lỗi, chất lượng của cuốn sách.

Ngoài ra, xu hướng tự xuất bản cũng ngày càng có nhiều động lực, giảm kỳ thị khi một số nhà văn bày tỏ rằng sự nghiệp của họ không nên bị các nhà xuất bản chính thống truyền thống sai khiến. Vì tất cả những lý do này, tự xuất bản đang trở thành một lựa chọn hấp dẫn hơn đối với nhiều nhà văn. Tự xuất bản là việc các tác giả chịu toàn bộ trách nhiệm tài chính đối với các giai đoạn sản xuất, phân phối và tiếp thị của một dự án mà họ có thể thuê các cá nhân làm việc tự do.

Một số nền tảng tự xuất bản như Lulu và Smashwords đã báo cáo sự gia tăng doanh số bán các đầu sách tự xuất bản bắt đầu từ tháng 3/2020 khi chính sách phong tỏa vì COVID-19 bắt đầu. Một lý do góp phần gia tăng xu thế tự xuất bản là việc sản xuất sách điện tử. Trong thời gian dịch bệnh, nhiều người ở nhà và dành thời gian trên nền tảng tực tuyến, vì vậy họ dễ dàng mua sách điện tử. Kindle Direct Publishing của Amazon tự hào cho biết vào năm 2020, ở Ấn Độ, “hàng nghìn tác giả” đã tự xuất bản tác phẩm của họ trên nền tảng – với con số được báo cáo là gấp đôi số lượng tác giả so với năm trước.

Là một nhà văn tự xuất bản có nghĩa là tác giả kiểm soát thời điểm xuất bản sách và cung cấp cho độc giả. Ví dụ, một số sự kiện ra mắt sách mùa hè đã bị trì hoãn bởi đại dịch. Tuy nhiên, với các nền tảng hỗ trợ tự xuất bản, các tác giả tự xuất bản đã thu hút được khán giả, những người đang chờ đợi các bản phát hành mới trong thời kỳ phong tỏa vì dịch bệnh và bế tắc của lĩnh vực xuất bản.

Chặng đường 10 năm của của sách tự xuất bản

Trong 10 năm qua, xu hướng tự xuất bản đã tiếp tục phát triển, trở thành một ngành công nghiệp có tiềm năng nhờ áp dụng ebook và các công ty xuất bản trực tuyến. Tuy nhiên, rất khó theo dõi số lượng sách tự xuất bản thực tế vì một số nền tảng như Amazon hay những nền tảng tự xuất bản khác để dữ liệu ở chế độ riêng tư. Nhưng Bowker, một công ty cung cấp thông tin thư mục cho những người làm việc trong ngành xuất bản, đã báo cáo sự gia tăng các đầu sách tự xuất bản trong thập kỷ qua. Bowker cho biết có 148.424 bản in sách tự xuất bản và thêm 87.201 sách điện tử trong năm 2011. Chỉ sáu năm sau, vào năm 2017, theo hồ sơ của công ty, số lượng sách tự xuất bản là hơn một triệu. Con số tiếp tục tăng vào năm sau, với hơn 1,5 triệu cuốn sách tự xuất bản được đăng ký trong hệ thống của Bowker.

Theo Wikipedia, xu hướng tự xuất bản sách đã tăng trưởng mạnh mẽ, thậm chí là “tăng trưởng chóng mặt”. Số lượng sách tự xuất bản đã tăng gấp ba lần từ năm 2006 đến năm 2012. Năm 2008, lần đầu tiên trong lịch sử, số lượng sách được tự xuất bản nhiều hơn những sách được xuất bản theo cách truyền thống. Năm 2009, 76% tổng số sách được phát hành là tự xuất bản, trong khi các nhà xuất bản phải giảm số lượng sách họ sản xuất.

Trở lại năm 2008, có 85.468 đầu sách tự xuất bản. Kể từ đó, số sách tự xuất bản liên tục tăng lên. Đến vào năm 2011, số lượng sách tự xuất bản là 247.210; đến năm 2012 là 459.000; đến năm 2017 đã có 786.935 sách tự xuất bản.Trong khoảng thời gian sáu năm, tăng trưởng số sách tự xuất bản là 218%. Những con số này không tính các đầu sách được xuất bản bởi các nền tảng Kindle Direct Publishing của Amazon. Đây là những con số sách tự xuất bản trên toàn thế giới, nhưng những con số này cũng rất mạnh đối với các thị trường cụ thể. Ví dụ, ở Vương quốc Anh, độc giả đã mua 18 triệu cuốn sách tự xuất bản trong năm 2013, tăng 79% so với năm trước. Số lượng sách tự xuất bản trên các nền tảng cũng tăng cao, vào năm 2012, ¼ sách được bán bởi dịch vụ Kindle Kindle Direct Publishing của Amazon là sách tự xuất bản.

Những phát triển này chỉ ra rằng tự xuất bản chắc chắn có khả năng giành một vị trí lâu dài trong hệ sinh thái xuất bản. Các phương thức xuất bản mới này có thể trở nên hấp dẫn đối với các tác giả, những người có thể sản xuất tác phẩm của họ và cung cấp tác phẩm cho công chúng mà không cần bất kỳ “người gác cổng” nào.

Sức mạnh của các nền tảng âm nhạc sẽ ngang ngửa với mạng xã hội

Sức mạnh của các nền tảng âm nhạc sẽ ngang ngửa với mạng xã hội

Nền tảng sản xuất âm nhạc Bandlab là sản phẩm của công ty BandLab Technologies, một công ty có trụ sở tại Singapore, điều hành một nền tảng âm nhạc xã hội, được gọi là BandLab, và cũng sở hữu nhiều thương hiệu liên quan đến âm nhạc như Harmony và Heritage Guitars; các nền tảng truyền thông Guitar.com, NME, Uncut và MusicTech.net; và nhà phân phối và bán lẻ nhạc cụ Swee Lee.

Không giống như hầu hết các công ty công cụ sáng tạo, Bandlab đã đặt mối quan tâm và đầu tư ngày càng tăng vào nền tảng của họ, xây dựng chính mình vừa như một nền tảng cho người sáng tạo và vừa như một mạng xã hội cho người hâm mộ. Mặc dù 30 triệu “người dùng” không hoàn toàn chỉ định là những “người dùng đang hoạt động”, nhưng nó cho thấy tiềm năng của cộng đồng người hâm mộ, những người có niềm đam mê chung là sáng tạo.

Ngoài ra, với một cộng đồng đông đảo người dùng như vậy, nền tảng Bandlab và những nền tảng công cụ sáng tạo khác được cho là có tiềm năng trở thành mạng xã hội.

Nền tảng sản xuất âm nhạc Bandlab đã đạt 30 triệu người dùng

Sức mạnh của BandLab

BandLab Technologies có trụ sở tại Singapore – thuộc sở hữu của Meng Ru Kuok, con trai của tỷ phú dầu cọ Kuok Khoon Hong. Theo Wikipedia, BandLab là một ứng dụng trực tuyến miễn phí để tạo nhạc và cộng tác với các nhạc sĩ khác. Nó hoạt động trong một trình duyệt hoặc với một ứng dụng độc lập. Bandlab bao gồm BandLab Album, một công cụ phân phối kỹ thuật số cho các nhạc sĩ, cho phép họ tạo nội dung độc quyền cho người nghe như các bản nhạc demo và video hậu trường. Công cụ này cũng bao gồm BandLab Live, một tính năng phát trực tiếp. Ứng dụng BandLab cho phép các nhạc sĩ cộng tác và chia sẻ những sáng tạo của họ, không bị gò bó bởi địa lý.

BandLab Technologies gần đây đã có những thương vụ thâu tóm lớn như ấn phẩm âm nhạc Uncut và NME (New Musical Express) trị giá 8,5 triệu bảng Anh (khoảng 11,2 triệu USD) vào tháng 5/2019. Nhà điều hành Meng Ru Kuok lần đầu tiên mua 49% cổ phần công ty vào năm 2016 với giá báo cáo là 40 triệu USD. Hiện tại, công ty không tính phí các nội dung truyền thông trực tuyến của mình hoặc phí sử dụng ứng dụng BandLab. Nền tảng cũng sẽ không động chạm đến số tiền mà các nghệ sĩ kiếm được trên đó từ các album BandLab mới ra mắt gần đây. Thay vào đó, mô hình kinh doanh tại Bandlab Technologies đang tập trung nhiều vào hoạt động kinh doanh bán lẻ của mình. Chuỗi âm nhạc Swee Lee là thương vụ mua lại đầu tiên của Meng Ru Kuok vào năm 2012. Một nguồn doanh thu khác là quảng cáo trên các tài sản truyền thông của nó.

Nhưng Bandlab Technologies tuyên bố đang làm việc với một tầm nhìn lớn hơn – một tầm nhìn mà ở đó các thương hiệu và dịch vụ liên kết âm nhạc khác nhau của họ sẽ cung cấp sức mạnh cho một hệ sinh thái thống nhất.

Bandlab trên Apple Watch

Hệ sinh thái âm nhạc sẽ trở nên rất quan trọng

Bandlab đang xây dựng một nền tảng công cụ dành cho người sáng tạo end-to-end, kết hợp DAW (phần mềm tạo nhạc), âm thanh, phân phối và khán giả. Cuộc chơi trong hệ sinh thái này sẽ trở nên rộng rãi hơn khi các nhà đầu tư kết hợp nhiều công ty công cụ dành cho người sáng tạo để xây dựng các thực thể kết hợp duy nhất, chẳng hạn như khoản đầu tư của Francisco Partners vào Native Instruments và iZotope. Mức độ tham gia sâu rộng của người hâm mộ sẽ trở thành chiến trường quan trọng mà các công ty công cụ nền tảng sáng tạo phải cạnh tranh.

Các nền tảng công cụ sáng tạo sẽ phải xây dựng cơ chế thu hút người hâm mộ, và đó trở thành một đặc điểm xác định tương lai của ngành kinh doanh âm nhạc. Điều quan trọng hơn nữa là cộng đồng người hâm mộ sẽ mở ra nguồn thu nhập mới cho các nghệ sĩ. Các sản phẩm như gói đăng ký thuê bao và hàng hóa ảo sẽ là những dịch vụ đảm bảo hầu hết người sáng tạo sẽ kiếm được nhiều tiền hơn từ các cộng đồng của họ so với khả năng phát trực tuyến.

Người sáng lập Bandlab, Meng Ru Kuok

Thương hiệu nghệ sĩ bị lép vế

Theo Blog về âm nhạc Music Industry Blog, thị trường phát nhạc trực tuyến đang khiến các nghệ sĩ gặp vấn đề về thương hiệu của họ, khiến hồ sơ của nghệ sĩ bị xếp xuống hàng dưới. Bởi vì, nếu phát trực tuyến là một máy tính, nghệ sĩ sẽ là chip xử lý, bên trong là Intel. Không có dấu hiệu nào cho thấy tình hình sẽ sớm thay đổi theo hướng có ý nghĩa, vì vậy các nghệ sĩ cần phải tìm đến những nơi khác để họ có thể xây dựng hồ sơ và mối quan hệ với người hâm mộ. Một giải pháp là đưa người hâm mộ đến gần hơn với quá trình sáng tạo. Ngày càng nhiều nghệ sĩ đã viết và sản xuất video trên Twitch, và họ biết rằng người hâm mộ quan tâm mạnh mẽ đến những chủ đề nào.

Trước đây, phần mềm và phần cứng để sản xuất âm nhạc theo truyền thống tương đối phức tạp, vì vậy không gian dành cho người hâm mộ không được xây dựng xung quanh những công cụ sáng tạo này. Tuy nhiên, quá trình tạo ra âm nhạc đang trải qua một cuộc cách mạng về trải nghiệm người dùng, với thiết kế trực quan, thanh lịch được ưu tiên. Tư duy lấy người dùng làm trung tâm có nghĩa là thế hệ mới của các sản phẩm công cụ dành cho người sáng tạo đã có sự thân thiện với người tiêu dùng hơn và nhiều sản phẩm cũng đã có các công cụ cộng đồng người sáng tạo mạnh mẽ.

Âm nhạc trực tuyến đạt 13,4 tỷ USD, chiếm 62% doanh thu âm nhạc trên toàn cầu

Âm nhạc trực tuyến đạt 13,4 tỷ USD, chiếm 62% doanh thu âm nhạc trên toàn cầu

Theo IFPI (Liên đoàn ghi âm quốc tế), tổ chức đại diện cho ngành công nghiệp âm nhạc toàn cầu, thị trường âm nhạc thu âm toàn cầu đã tăng trưởng 7,4% vào năm 2020, trong đó mảng âm nhạc trực tuyến (streaming) tăng trưởng mạnh nhất. Đây là năm tăng trưởng thứ sáu liên tiếp của thị trường này. Số liệu tăng trưởng đã được IFPI chính thức công bố trong Báo cáo âm nhạc toàn cầu của IFPI. Với mức tăng trưởng này, tổng doanh thu của ngành âm nhạc thu âm toàn cầu năm 2020 là 21,6 tỷ USD.

Tính năng phát trực tuyến (streaming) là một trong những nhân tố thúc đẩy sự tăng trưởng của ngành công nghiệp âm nhạc toàn cầu, đặc biệt là doanh thu đăng ký trả phí để xem nhạc phát trực tuyến, với mức tăng 18,5%. Tính đến cuối năm 2020, đã có 443 triệu người dùng tài khoản đăng ký trả phí. Tổng số lượt phát trực tuyến (bao gồm cả đăng ký trả phí và có quảng cáo) đã tăng 19,9% và đạt 13,4 tỷ USD, tương đương 62,1% tổng doanh thu âm nhạc được ghi nhận trên toàn cầu.

Doanh thu phát nhạc trực tuyến tăng trưởng đã bù đắp cho những mảng đang sụt giảm khác của ngành âm nhạc như doanh thu từ việc bán các định dạng nhạc vật lý như băng đĩa, CD, đặc biệt là nguồn doanh thu đến từ quyền biểu diễn giảm 10,1% – phần lớn là do đại dịch COVID-19.

Nỗ lực đầu tư của các công ty thu âm đã giúp đặt nền móng cho một ngành công nghiệp âm nhạc kỹ thuật số, một lĩnh vực đã chứng minh được khả năng phục hồi mạnh mẽ trong năm “bất thường” 2020 trên toàn cầu. 2020 là một năm đầy thử thách, trong năm này các công ty thu âm đã hợp tác cùng với các đối tác nghệ sĩ để hỗ trợ các nỗ lực tạo và thu âm nhạc. Toàn bộ lĩnh vực phát nhạc trực tuyến đã tiếp tục thúc đẩy những đổi mới trong cách người hâm mộ có thể trải nghiệm âm nhạc trên khắp thế giới.

Frances Moore, Giám đốc điều hành IFPI, cho biết: “Khi thế giới chiến đấu với đại dịch COVID-19, chúng tôi đã được nhắc nhở về sức mạnh lâu dài của âm nhạc trong việc an ủi, chữa lành và nâng cao tinh thần con người”.

“Có một số thứ có sức mạnh vượt thời gian, như sức mạnh của một bài hát tuyệt vời hay sự kết nối giữa nghệ sĩ và người hâm mộ. Tất cả những điều này vẫn có sức mạnh vượt thời gian, nhưng một số điều đã thay đổi. Với việc nhiều chính phủ phải ra chính sách phong tỏa, giãn cách xã hội, các buổi biểu diễn âm nhạc trực tiếp phải ngừng hoạt động, ở hầu hết mọi nơi trên thế giới, người hâm mộ đã thưởng thức âm nhạc qua phát trực tuyến”.

Giám đốc điều hành IFPI cho biết nhờ sự đầu tư không ngừng của các công ty thu âm vào các thiết bị kỹ thuật số, vào nghệ sĩ và sự nghiệp của họ, cùng với những nỗ lực đổi mới để giúp nghệ sĩ mang âm nhạc đến với người hâm mộ theo những cách mới, doanh thu âm nhạc trên toàn cầu đã ghi nhận mức tăng trong năm thứ sáu liên tiếp, nhờ tính năng đăng ký phát trực tuyến. Khi các công ty thu âm tiếp tục mở rộng phạm vi địa lý và phạm vi văn hóa, âm nhạc ngày nay có sức mạnh kết nối toàn cầu hơn bao giờ hết và sự tăng trưởng này đã lan rộng ra tất cả các khu vực trên toàn cầu.

“Đại dịch đã tác động đến mọi khía cạnh của đời sống, những bất công xã hội xảy ra do tình trạng phong tỏa, giãn cách xã hội ngày càng gia tăng, các công ty thu âm đã làm việc chăm chỉ để đóng góp ý nghĩa và lâu dài cho thế giới mà chúng ta sống”, Giám đốc điều hành IFPI nói.

Sơ đồ tăng trưởng doanh thu ngành công nghiệp âm nhạc toàn cầu từ năm 2001 – 2020. Mảng doanh thu từ âm nhạc streaming ngày càng có sự tăng trưởng mạnh mẽ, đặc biệt trong năm 2020 khi đại dịch COVID-19 xảy ra, trong khi đó các nguồn doanh thu như doanh thu vật lý đến từ bán bằng đĩa CD hay doanh thu từ hình thức biểu diễn trực tiếp giảm mạnh

Doanh thu âm nhạc trực tuyến tăng trưởng nóng
Doanh thu âm nhạc được ghi nhận đã tăng trưởng ở mọi khu vực trên thế giới vào năm 2020. Trong đó, Mỹ Latinh tiếp tục là khu vực phát triển nhanh nhất trên toàn cầu với mức tăng trưởng chung 15,9% và riêng mảng doanh thu âm nhạc trực tuyến tăng 30,2%, chiếm 84,1% tổng doanh thu của khu vực.

Ngành công nghiệp âm nhạc của châu Á tăng 9,5% trong năm 2020 và doanh thu kỹ thuật số lần đầu tiên vượt qua thị phần 50% trong tổng doanh thu của khu vực. Nếu loại trừ Nhật Bản, nơi có doanh thu sụt giảm 2,1%, châu Á sẽ là khu vực phát triển nhanh nhất, với mức tăng trưởng đặc biệt là 29,9%

Lần đầu tiên nổi bật trong báo cáo doanh thu âm nhạc toàn cầu là khu vực Châu Phi và Trung Đông với mức tăng trưởng đạt 8,4%, chủ yếu đến từ khu vực Trung Đông và Bắc Phi với 37,8%. Kinh doanh âm nhạc trực tuyến chiếm ưu thế với doanh thu tăng 36,4%.

Trong khi đó, doanh thu tại châu Âu, khu vực thu âm âm nhạc lớn thứ hai trên thế giới, tăng 3,5%, tốc độ phát nhạc trực tuyến tăng mạnh mẽ 20,7% bù đắp cho sự sụt giảm ở tất cả các định dạng tiêu dùng khác.

Khu vực Hoa Kỳ và Canada tăng 7,4% vào năm 2020. Thị trường Mỹ tăng 7,3% và doanh thu âm nhạc thu âm của Canada tăng 8,1%.