Bài 2: Ngành công nghiệp bản quyền dưới góc nhìn kinh tế

Bài 2: Ngành công nghiệp bản quyền dưới góc nhìn kinh tế

Bài 1: Bản quyền trong kỷ nguyên kỹ thuật số

Bản quyền được cấp tự động, không yêu cầu bất kỳ chứng nhận chính thức nào

Bản quyền là một dạng quyền sở hữu trí tuệ (IPR) cấp cho người tạo ra tác phẩm gốc (tác phẩm sáng tạo) một số quyền nhất định đối với tác phẩm đó trong một khoảng thời gian giới hạn. Chủ bản quyền có một công cụ độc quyền để sao chép tác phẩm của mình dưới các hình thức như ấn phẩm in hoặc bản ghi âm, để phân phối các bản sao và bản dịch, để phát hành tác phẩm hoặc cung cấp nó, để cấp phép và/hoặc cho mượn nó, để phái sinh nó (Ví dụ: để biến một cuốn sách thành kịch bản phim) hay trình diễn dựa trên tác phẩm

Độc lập với các quyền kinh tế, các tác giả được trao các quyền đạo đức, như quyền tác giả, quyền toàn vẹn của công việc, quyền được ghi nhận và quyền được ban hành. Các quyền này có thể được duy trì bởi tác giả ngay cả khi bản quyền đã được chuyển cho bên thứ ba (bán độc quyền).

Các loại tác phẩm được bảo vệ, theo hầu hết các luật bản quyền quốc gia bao gồm: Tác phẩm văn học (như tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, tiểu thuyết và truyện ngắn), tác phẩm âm nhạc, tác phẩm sân khấu, tác phẩm nghệ thuật (dù là bản vẽ hai chiều, tranh vẽ, hoặc ba chiều như tác phẩm điêu khắc, tác phẩm kiến trúc), bản đồ và bản vẽ kỹ thuật (bao gồm các tác phẩm bản đồ, kế hoạch, bản thiết kế, sơ đồ…), tác phẩm nhiếp ảnh, tác phẩm điện ảnh và chương trình máy tính và tác phẩm sáng tạo cho cơ sở dữ liệu. Cần nhấn mạnh rằng bản quyền áp dụng cho tất cả các tác phẩm gốc, bất kể chất lượng nội dung của chúng. Bản quyền không bao gồm các ý tưởng, thủ tục, phương pháp hoạt động (bí quyết) hoặc các khái niệm toán học.

Bảo vệ bản quyền bị ràng buộc theo thời gian. Theo thỏa thuận quốc tế về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS) do Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) quản lý, tồn tại ít nhất 50 năm sau cái chết của tác giả. Có xu hướng các quốc gia áp dụng các điều khoản dài hơn mức tối thiểu theo yêu cầu của TRIPS và các điều ước quốc tế do Tổ chức Quyền sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) quản lý. Ví dụ, tính bằng tuổi đời của tác giả cộng với 70 năm, hoặc ít nhất 70 năm kể từ lần xuất bản đầu tiên nếu tác giả không phải là người tự nhiên (Một số dữ liệu thu thập từ vệ tinh, cảm biến thời tiết, thăm dò địa chất,…)

Luật bản quyền đã được chuẩn hóa một phần thông qua một bộ các công ước quốc tế. Công ước Berne là một trong những thỏa thuận quốc tế đầu tiên về bản quyền, được chấp nhận vào năm 1886. Hầu hết các điều khoản của Công ước Berne đã được đưa vào thỏa thuận TRIPS của Tổ chức Thương mại Thế giới năm 1995.

Ngày nay, phần lớn các nước đều áp dụng tiêu chuẩn Công ước Berne. Theo đó, bản quyền được cấp tự động và không yêu cầu bất kỳ chứng nhận chính thức nào khi một tác phẩm đủ điều kiện được trình bày cho công chúng ở dạng vật lý hoặc được bảo mật trên phương tiện (Ví dụ: đĩa quang, tệp máy tính, tranh…), chủ sở hữu sẽ tự động được hưởng bản quyền độc quyền của mình. Cả Công ước Berne và TRIPS đều cấm các bên ký kết duy trì bất kỳ thủ tục nào để bảo vệ bản quyền

Trong bối cảnh này, cũng cần nhấn mạnh rằng những gì được “giao dịch trực tiếp” trên bản quyền là quyền truy cập tài sản trí tuệ có liên quan, không phải là quyền sở hữu tài sản đó. Nói cách khác, bản quyền khác với các phương tiện giao hàng. Một bài hát được bảo vệ bởi bản quyền, nhưng CD nhạc là phương tiện chuyển phát. Nếu bạn mua CD nhạc, bạn sở hữu CD đó nhưng bạn không sở hữu các bài hát trên đó. Do đó, những gì người ta đạt được trong một giao dịch bản quyền là việc sử dụng tác phẩm cho các mục đích nhất định hoặc trong một khoảng thời gian cụ thể.

Cơ sở kinh tế cho bản quyền

Trước khi thảo luận về xu hướng kinh tế cho bản quyền, điều quan trọng phải thấy rõ hai đặc tính kinh tế chính của các tác phẩm sáng tạo làm cho chúng khác biệt cơ bản với hàng hóa hữu hình. Cụ thể, các tác phẩm sáng tạo như phim ảnh, sách và các tác phẩm âm nhạc là: không cạnh tranh và không thể loại trừ.

Chúng không cạnh tranh, có nghĩa là chúng có thể được sử dụng bởi nhiều người cùng một lúc mà không làm giảm giá trị tiêu dùng cá nhân.

Chúng cũng không thể loại trừ, điều đó có nghĩa là nếu không có các quyền hợp pháp phù hợp, hoặc các giải pháp bảo vệ phù hợp, các tác giả thường rất khó ngăn chặn việc sử dụng trái phép nội dung (Watt, 2004).

Những đặc điểm kinh tế của các tác phẩm sáng tạo dẫn đến một số tính năng đặc biệt của thị trường cho nội dung sáng tạo. Sự không cạnh tranh của các tác phẩm sáng tạo dẫn đến chi phí tái sản xuất của hầu hết các tài sản có bản quyền gần như bằng 0 hoặc rất thấp. Điều đó có nghĩa là nếu không có sự bảo vệ bản quyền hợp pháp, tác phẩm gốc có thể sẽ không tồn tại (vì chi phí cận biên để tái tạo ra bản sao tương tự gần như bằng 0 hoặc là nhỏ đến mức không đủ để trang trải các chi phí cố định).

Tính năng “không thể loại trừ” đề cập đến vai trò kinh tế của các quyền hợp pháp và các giải pháp bảo vệ phù hợp. Lý do kinh tế cho bản quyền là nếu không có sự bảo vệ này, những người khác có thể tự do sử dụng, xâm hại vào những nỗ lực của tác giả (người sáng tạo ra sản phẩm gốc) và do đó cản trở việc cung cấp các tác phẩm sáng tạo chính gốc.

Theo đó, việc thiếu quyền, thiếu sự thiết lập tốt và thiếu việc thực thi đúng cách sẽ không khuyến khích đầu tư trong tương lai vào các tác phẩm văn học, nghệ thuật và sáng tạo mới. Lý do kinh tế rõ ràng cho bản quyền này được thể hiện tốt nhất bằng các quy định pháp luật kèm các biện pháp kỹ thuật hỗ trợ. Ví dụ: Công cụ DRM – nhằm chống lại việc dễ dàng sao chép phân phối bất kỳ một tác tác phẩm gốc nào như: Sách, phim, tác phẩm âm nhạc hoặc tác phẩm văn học bởi tính khó tạo ra nhưng dễ dàng sao chép của các sản phẩm nội dung số (Raustiala và Sprigman, 2006).

Do đó, lập luận về bản quyền là khuyến khích tạo và phổ biến phải được thúc đẩy bằng cách cho người sáng tạo một số quyền kiểm soát đối với cách người khác khi họ sử dụng hay tạo ra các bản sao (Greenhalgh và Rogers, 2010). Kiểm soát có thẩm quyền thông qua các quyền độc quyền cung cấp các khuyến khích kinh tế quan trọng và cung cấp cho các tác giả khả năng kiếm sống từ các tác phẩm sáng tạo của họ. Điều này là động lực giúp cho việc phát triển các sản phẩm văn hóa và phát triển người sáng tạo.

Theo dự báo, trong lĩnh vực truyền hình, tại châu Âu, tỷ lệ vi phạm bản quyền đến năm 2022 sẽ xấp xỉ chiếm 50% so với nội dung có bản quyền

Vai trò của luật và giải pháp bảo vệ bản quyền DRM (Digital Rights Managements)

Các tài liệu kinh tế cũng xác định một sự đánh đổi quan trọng liên quan đến luật bản quyền, rằng: Nếu bảo vệ bản quyền quá mạnh, các ưu đãi để dành cho sáng tạo sẽ có nhiều quyền hạn, nhưng khi ấy quyền sử dụng các tác phẩm có thể trở nên đắt đỏ, dẫn đến sự không tối ưu về mặt kinh tế. Mặt khác, nếu bảo vệ bản quyền quá yếu, có thể sẽ có quá ít tác phẩm sáng tạo được sản xuất và/hoặc chúng sẽ có chất lượng kém hơn. Các tác giả sẽ chuyển thời gian và nỗ lực của họ sang các lĩnh vực hoạt động khác. Do đó: Một mặt, xã hội cần có đủ sự bảo vệ để tại bất kỳ thời điểm nào cho các hoạt động sáng tạo. Mặt khác, bảo vệ quá mức có thể tạo ra sức mạnh thị trường và do đó làm tăng giá sử dụng sản phẩm, điều này sẽ làm giảm mức độ phổ biến của các tác phẩm sáng tạo.

Như Landes và Posner (1989) đã tóm tắt: Bảo vệ bản quyền – quyền của chủ sở hữu bản quyền tức là ngăn người khác tạo bản sao, sử dụng bản sao với chi phí rẻ dẫn đến việc người dùng từ chối việc sử dụng tác phẩm gốc, chống lại các khuyến khích để tạo ra tác phẩm gốc. Do đó, việc tạo sự cân bằng chính xác giữa quyền truy cập và ưu đãi là vấn đề trọng tâm trong luật bản quyền.

Để giải quyết vấn đề này, sự mềm dẻo của các giải pháp công nghệ trong lĩnh vực bản quyền, mà trung tâm ở đó là các giải pháp DRM cho các lĩnh vực như: Điện ảnh, xuất bản điện tử, thiết kế mỹ thuật, thiết kế đồ họa… thực sự phát huy được tác dụng hơn là các thiết chế dựa trên nền tảng luật pháp.

Bởi nhờ các biện pháp bảo vệ bản quyền kỹ thuật số, các tác giả có thể linh hoạt cấp quyền cho người xem (người xem có thể sử dụng sản phẩm không phải trả tiền, nhưng không được sao chép), cho phép các đại lý ủy quyền được phân phối tác phẩm mà quyền và số lần sử dụng tác phẩm này đều được do đếm một cách công khai.

Cũng nhờ công cụ DRM mà các nghiên cứu của của các tổ chức lớn trên thế giới (như là EPO- OHIM, 2013; ESA-USPTO, 2010; Viện Bản quyền Nhật Bản, 2009; Siwek-IIPA, 2004; Bộ Văn hóa, Truyền thông và Thể thao Vương quốc Anh, 2014), đã có được những thống kê tốt và rất cần thiết về bản quyền để thúc đẩy nghiên cứu kinh tế trong lĩnh vực này và cung cấp hướng dẫn khả thi và khả thi cho các nhà hoạch định chính sách (Watt, 2004; Png, 2006; Handke, 2012).

Các ngành công nghiệp thâm dụng bản quyền

Có một lịch sử đặc biệt trong các nghiên cứu đã tìm cách đánh giá tầm quan trọng của các ngành công nghiệp phụ thuộc vào bản quyền. Thách thức cho đến nay là thống nhất xem ngành nào hoặc phần nào của ngành nên được coi là “ngành bản quyền”. Trong thực tế, đây chính là xác định xem bộ phận chức năng nào trong ngành công nghiệp đó giúp cung cấp phương tiện, công cụ cho các tác phẩm được bảo vệ bản quyền và cung cấp dữ liệu thống kê theo từng lĩnh vực.

Tác phẩm sáng tạo chịu sự bảo vệ bản quyền, như được định nghĩa bởi TRIPS, được sản xuất trong các phần khác nhau của nền kinh tế. Để thuận tiện cho việc phân tích định lượng các hoạt động liên quan đến bản quyền trong nền kinh tế, WIPO (2003) đã giới thiệu một phương pháp phân biệt các ngành thâm dụng bản quyền và chia chúng thành bốn nhóm chính: i ) cốt lõi, ii) phụ thuộc lẫn nhau, iii) một phần và iv ) phụ trợ.

i) Các ngành công nghiệp sử dụng bản quyền cốt lõi là các ngành hoàn toàn tham gia vào việc tạo, sản xuất và sản xuất, biểu diễn, phát sóng, truyền thông và triển lãm, hoặc phân phối và bán các tác phẩm và các vấn đề được bảo vệ. WIPO đã xác định chín nhóm sau đây là các ngành bản quyền cốt lõi:
1. Báo chí và văn học
2. Âm nhạc, sản xuất sân khấu, nhà hát
3. Hình ảnh chuyển động, video
4. Nhiếp ảnh
5. Đài phát thanh và truyền hình
6. Phần mềm và cơ sở dữ liệu
7. Tác phẩm đồ họa và mỹ thuật
8. Dịch vụ quảng cáo
9. Các tổ chức quản lý thu thập bản quyền

Ngoài các ngành công nghiệp bản quyền cốt lõi ở trên, WIPO cũng xác định ba nhóm ngành có hoạt động liên quan đến ngành bản quyền ở một mức độ nào đó, bao gồm: các ngành công nghiệp phụ thuộc, một phần và không chuyên dụng.

ii) Các ngành công nghiệp bản quyền phụ thuộc là các ngành tham gia vào sản xuất, sản xuất và bán thiết bị có chức năng hoàn toàn hoặc chủ yếu để tạo thuận lợi cho việc tạo ra, sản xuất hoặc sử dụng các tác phẩm và các vấn đề được bảo vệ khác.

iii) Các ngành công nghiệp bản quyền một phần là các ngành trong đó một phần của các hoạt động liên quan đến các tác phẩm và các vấn đề được bảo vệ khác và có thể liên quan đến việc tạo, sản xuất và sản xuất, hiệu suất, phát sóng, truyền thông và triển lãm hoặc phân phối và bán hàng.

iv) Ngành công nghiệp bản quyền phụ trợ là các ngành trong đó một phần của các hoạt động có liên quan đến việc tạo điều kiện phát sóng, truyền thông, phân phối hoặc bán các tác phẩm và các vấn đề được bảo vệ khác, và các hoạt động của chúng không được đưa vào các ngành bản quyền cốt lõi.

Bởi vì các ngành công nghiệp phụ thuộc, một phần và không chuyên dụng chỉ tham gia một phần vào các hoạt động liên quan đến bản quyền, chỉ một phần việc làm và giá trị gia tăng của họ nên được coi là thâm dụng bản quyền. Do vậy, đối với các nước, khi quy định về bản quyền và chịu trách nhiệm về bản quyền, họ sẽ chỉ ràng buộc tập trung vào các ngành công nghiệp bản quyền cốt lõi của WIPO (Gantchev, 2004).

Nguyễn Ngọc Hân (CEO Thudo Multimedia)

Bài 1: Bản quyền trong kỷ nguyên kỹ thuật số

Bài 1: Bản quyền trong kỷ nguyên kỹ thuật số

Nội dung số là “Mỏ vàng mới”

Vào năm 2015, Chính phủ Việt Nam đã công bố kế hoạch 10 năm về chuyển đổi kỹ thuật số trên diện rộng của đất nước, với kế hoạch đầy tham vọng là có được 10 kỳ lân khởi nghiệp có giá trị trên 1 tỷ USD mỗi năm vào năm 2030.

Với mục tiêu kết hợp ít nhất 10% việc áp dụng kỹ thuật số trên tất cả các lĩnh vực và tỷ lệ ứng dụng Internet là 80% cho tất cả các hộ gia đình, kế hoạch này dường như đang đi đúng hướng.

Các ước tính của Google, Temasek và Bain&Co dự đoán rằng khu vực Việt Nam có thể tăng trưởng lên 52 tỷ USD vào năm 2025, chiếm khoảng 1/6 trong số 300 tỷ USD của nền kinh tế kỹ thuật số Đông Nam Á. Sự phát triển của kinh tế số của Việt Nam mang đến nhiều cơ hội cho các nhà đầu tư, các công ty khởi nghiệp và các doanh nghiệp.

Các cơ hội này bao gồm các dịch vụ thương mại điện tử, tài chính kỹ thuật số, trò chơi trực tuyến và các dịch vụ hỗ trợ công nghệ để thúc đẩy tiến trình Công nghiệp 4.0 (IR 4.0). Cũng giống như các nước ASEAN khác, phần lớn người dân Việt Nam vẫn đang còn ít tiếp cận với các dịch vụ ngân hàng, khiến các dịch vụ tài chính kỹ thuật số trở thành một lựa chọn rất hấp dẫn cho các khoản vay và thanh toán.

Trong đó, ngành Nội dung số đang được đánh giá là một “mỏ vàng mới” hình thành một ngành công nghiệp mới có quy mô nhiều tỷ USD tại Việt Nam. Từ mức chỉ đạt 3.000-4.000 tỉ đồng cách đây 10 năm, đến nay ngành công nghiệp nội dung số Việt Nam đã có doanh số chục ngàn tỉ đồng. Doanh nghiệp trong nước đang bắt kịp làn sóng này và hướng tầm nhìn ra thế giới.

Tính riêng trong cộng đồng ASEAN với hơn 400 triệu người, doanh thu hằng năm của ngành công nghiệp nội dung số khu vực ước đạt 150 tỉ USD, trong đó nguồn thu từ bản quyền đạt 5-7 tỉ USD và lên tới 55-65 tỉ USD cho các dịch vụ nội dung số.

Ở Việt Nam, trong bối cảnh thiết bị và hạ tầng mạng ngày càng phát triển, dân số trẻ, số người dùng smartphone ngày càng tăng, hạ tầng Internet và băng rộng ngày càng phát triển, tuy tỉ trọng doanh thu của công nghiệp nội dung số trong toàn ngành công nghệ thông tin chưa đạt được 10% nhưng Viện Chiến lược Thông tin và Truyền thông (Bộ TT&TT) đã xác định, nội dung số là thị trường đầy tiềm năng, sẽ bùng nổ. Trong 5-10 năm tới, ngành nội dung số phát triển được dự báo chỉ sau du lịch, vượt qua dệt may, xăng dầu… về giá trị kinh tế mang lại cho Việt Nam và ước chừng có một triệu lao động.

Theo Viện Chiến lược Thông tin và Truyền thông, Việt Nam đang dẫn đầu khu vực ASEAN với 92% người xem video trực tuyến mỗi tuần, kế đến là Philippines với 85%, Indonesia với 81%. Trong vòng 4 năm, tỉ lệ xem video trực tuyến trên smartphone đã tăng từ 10% lên 64%. Có đến 97% người Việt Nam được phỏng vấn nói rằng họ dùng dịch vụ “video theo yêu cầu” để xem phim, 90% xem chương trình giải trí, 89% xem tin tức từ các kênh địa phương, 87% xem ca nhạc, 84% xem phim nước ngoài.

Giá trị của bản quyền để thúc đẩy ngành nội dung số

Internet đã trở thành một nền tảng quan trọng để cung cấp nội dung kỹ thuật số như phim ảnh, âm nhạc, sách, tin tức và phần mềm. Quan trọng nhất, phạm vi tiếp cận toàn cầu của Internet cho phép nội dung được gửi gần như ngay lập tức đến bất kỳ nơi nào trên thế giới. Điều này có nghĩa là nhiều rào cản hạn chế trong trao đổi các sản phẩm nội dung vật lý (ví dụ: vận chuyển tốn kém, thuế nhập khẩu) được giảm đáng kể hoặc loại bỏ đối với sản phẩm nội dung số. Thể hiện trên cũng giúp nhấn mạnh tầm quan trọng của bản quyền như một cơ chế khuyến khích cho việc tạo và phổ biến nội dung số.

Nội dung số đang nở rộ trên Internet theo một loạt các chỉ số tăng trưởng. Tính đến năm 2016, tại châu Âu, giá trị của ngành sở hữu trí tuệ đã chiếm 48% GDP, chiếm 29,2% việc làm trực tiếp của toàn khối (trong đó việc làm của công dân trong khối là: 12,9%; và của các công ty nước ngoài tại châu Âu là: 9,8%)

Cisco đã ước tính rằng tất cả các dạng video (ví dụ: TV, video theo yêu cầu, Internet và P2P) sẽ chiếm khoảng 90% tổng lưu lượng truy cập Internet của người tiêu dùng vào năm 2021 (Cisco, 2018). Một ví dụ khác là sự tăng trưởng nhanh chóng gần đây của các trang web cho phép người dùng tải lên và chia sẻ nội dung trên Internet. Ước tính, riêng trang web chia sẻ ảnh Flickr, năm 2013, đã đạt trung bình 1,6 triệu ảnh được tải lên hàng ngày.

Đồng nghĩa với sự phát triển mạnh mẽ của nội dung số trên nền tảng Internet, cũng có một phần đáng kể lưu lượng truy cập là vi phạm bản quyền, mặc dù thực tế là phần lớn các tác phẩm phổ biến cũng đều có quy định hoặc các công bố về bản quyền. Nhưng các đối tượng sử dụng thường tìm cách để vi phạm, hoặc đôi khi, trong rất nhiều trường hợp, người mua sản phẩm nội dung số cũng không biết được sản phẩm của mình đang mua là hàng giả (vì chất lượng sản phẩm hoàn toàn tương đương nhau).

Giải pháp kỹ thuật tự bảo vệ tài sản số trước sự phát triển của công nghệ

Điều này dẫn đến việc, ngoài các chế tài hiện đang có đang được quy định trong Luật Sở hữu trí tuệ (50/2005/QH11 ngày 29/11/2005), song các quy định trong Luật hiện đang không sát với các sản phẩm nội dung số được phân phối trên nền tảng Internet. Do đó, cần có các quy định pháp luật cho việc sử dụng các giải pháp bảo vệ bản quyền như DRM (Digital Rights Managements) hoặc Fingerprint Online (cho phép phát hiện ra nguồn phát tán tín hiệu), hoặc HDCP (cho phép chặn hoặc hạn chế các thiết bị không đủ tiêu chuẩn phần cứng tiếp cận nội dung)…

Các giải pháp kỹ thuật trên ra đời, giúp cho sản phẩm nội dung số được tự bảo vệ về bản quyền trước sự phát triển của công nghệ. Bởi, với tính năng không biên giới và dễ dàng sao chép, việc áp dụng các luật hoặc hàng rào luật pháp dường như là không đủ và đôi khi, không thể phát hiện ra được chính xác nguồn gốc phát tán ở một khu vực địa lý cụ thể để áp dụng luật. Trên thực tế, ở nước nào, có quy định pháp luật về áp dụng chặt chẽ các giải pháp công nghệ có bản quyền, thì nước đó nạn vi phạm bản quyền nội dung số được giảm thiểu, và đem lại sự tăng trưởng GDP tốt, cũng như tỷ lệ người làm việc trong các lĩnh vực sáng tạo được phát triển.

Giá trị gia tăng và việc làm trong ngành công nghiệp có bản quyền tại một số nước châu Âu (năm 2010) – cứ 100 người thì có 7 người làm trong lĩnh vực nội dung số

Với các lập luận trên, ở nhiều nước trên thế giới, các nhà hoạch định chính sách đã nhận thức được sâu sắc và thấy cần phải tiếp tục thúc đẩy việc tạo và phổ biến nội dung số. Đồng thời tuyên bố chính sách sao chép hiệu quả (bao gồm cả việc thực thi) là trung tâm cho sự thành công của việc phát triển nền kinh tế số trong kỷ nguyên Internet. Bởi có thúc đẩy được sáng tạo, mới thúc đẩy được văn hóa, giáo dục – hai nền tảng quan trọng nhất trong kỷ nguyên hiện nay.

Tuyên bố OECD Seoul năm 2008 về tương lai của nền kinh tế Internet (OECD, 2008) và Khuyến nghị của Hội đồng OECD năm 2011 về các nguyên tắc cho chính sách Internet cũng nhấn mạnh rằng: “Bảo vệ hiệu quả quyền sở hữu trí tuệ đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy đổi mới và thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế Internet, (OECD, 2011)”.

Trong khi phạm vi tiếp cận toàn cầu của Internet đã khiến thị trường tiềm năng cho nội dung số trở nên rất lớn, cũng có nhiều cuộc tranh luận về việc liệu các luật và quy định hiện hành có đối phó tốt với sự phát triển công nghệ nhanh chóng hay không? Tuy nhiên, phấn lớn các nhận thức vĩ mô đều đồng thuận rằng: Khi thị trường cho nội dung số đã phát triển, thì tầm quan trọng của việc thực hiện các chính sách bản quyền hợp lý, các quy định về áp dụng các biện pháp bảo vệ bản quyền là việc thực sự quan trọng và cần thiết. Đi kèm với đó, là nghiên cứu, đề xuất các phát minh nhằm chống lại sự vi phạm bản quyền.

Nguyễn Ngọc Hân (CEO Thudo Multimedia)

Ngành công nghiệp phát nhạc trực tuyến: Ngày càng “nhiều miệng ăn”

Ngành công nghiệp phát nhạc trực tuyến: Ngày càng “nhiều miệng ăn”

Thời đại Internet nên nhiều nền tảng phát nhạc trực tuyến đã ra đời. Điều này khiến nhiều người bình thường “bỗng dưng trở thành ngôi sao”. Tuy nhiên, như thế không có nghĩa là trở thành ngôi sao âm nhạc là điều dễ dàng. Thực tế, đó là điều chưa bao giờ dễ dàng.

Trái lại, thời đại của phát nhạc trực tuyến đang mang lại nhiều khó khăn hơn cho các nghệ sỹ chính thống và chuyên nghiệp, khi sân chơi xuất hiện quá nhiều những người chơi hệ nghiệp dư. Trong khi đó, câu chuyện bản quyền âm nhạc vẫn chưa bao giờ có hồi kết.

Doanh thu ngành âm nhạc, cả phát trực tuyến và biểu diễn trực tiếp, tăng lên. Nhưng, thu nhập của nghệ sĩ lại giảm xuống. Đó là một câu chuyện buồn được viết trên blog âm nhạc Music Industry Blog.

Doanh thu ngành âm nhạc, cả phát trực tuyến và biểu diễn trực tiếp, tăng lên. Nhưng, thu nhập của nghệ sĩ lại giảm xuống. Đó là một câu chuyện buồn được viết trên blog âm nhạc Music Industry Blog

Thêm nhiều miệng ăn

Bất chấp thách thức đại dịch COVID-19, doanh thu phát trực tuyến (streaming) đã tăng 20% ​​vào năm 2020. Số lượng thuê bao trực tuyến còn tăng nhanh hơn nữa. Trong cùng thời kỳ, số lượng nghệ sĩ phát hành cũng tăng hơn 33%. Và đây là một bài toán số học rất đơn giản: nhiều nghệ sĩ mới xuất hiện hơn lượng doanh thu âm nhạc mới, có nghĩa là thu nhập trung bình trên mỗi nghệ sĩ thấp hơn. Như nhà kinh tế học Will Page nói, tình huống này là “có nhiều miệng ăn” hơn.

Ngay cả trong phân khúc nghệ sĩ biểu diễn trực tiếp đang phát triển nhanh, doanh thu tăng nhanh hơn đáng kể so với thị trường chung (34%), thu nhập trung bình của mỗi nghệ sĩ chỉ tăng 2% lên 234 USD một năm, trên tất cả các ghi nhận định dạng âm nhạc. Và tất nhiên, con số thu nhập đó bị lệch hẳn bởi một vài nghìn nghệ sĩ độc lập ‘siêu sao’, song phần lớn thu nhập của các nghệ sĩ thấp hơn rất nhiều.

Năm 2000, có khoảng 5 triệu nghệ sĩ tham gia biểu diễn trực tiếp. Chưa bao giờ có nhiều người phát hành âm nhạc của họ đến công chúng toàn cầu như vậy. Cuộc cách mạng sáng tạo âm nhạc dường như chưa từng có nhiều nghệ sĩ đến như vậy, có đến 5 triệu giấc mơ đang được theo đuổi sự nghiệp.

Nhưng chỉ với 234 USD thu nhập hàng năm, thực tế là gần như tất cả những giấc mơ đó sẽ không thành hiện thực. Giấc mơ âm nhạc vẫn luôn như vậy, nhưng khác biệt là bây giờ kỳ vọng đã được tăng cao, với giải pháp phát nhạc trực tuyến. Tuy nhiên, lại một lần nữa, số lượng phát trực tuyến có thể lớn nhưng chỉ mang lại doanh thu nhỏ. Ví dụ, một nghệ sĩ tự phát hành thu về 100.000 lượt phát trực tuyến có thể chỉ thu về 500 USD. Số tiền này là một khoản lợi nhuận rất khiêm tốn đối với một nghệ sĩ không nắm được toàn bộ cách thức hoạt động của tiền bản quyền phát trực tuyến.

Với các nền tảng phát trực tuyến, “dân” nghiệp dư đã bước lên sân khấu của “dân” chuyên nghiệp

Đây là một nghịch lý nhỏ. Ngày càng nhiều nghệ sĩ có thể tiếp cận khán giả toàn cầu bằng phương thức phát nhạc trực tuyến, nhưng có rất ít nghệ sỹ hoặc thậm chí là không nghệ sỹ nào đạt mức thu nhập ý nghĩa. Phần lớn cuộc tranh luận về thu nhập của các nghệ sỹ khi phát nhạc trực tuyến đều xoay quanh hoàn cảnh của nghệ sĩ thuộc tầng lớp trung lưu. Trong khi đó, động lực lớn để thành công trong cuộc chơi là sự sáng tạo của tầng lớp những người đam mê nghiệp dư. Trong kinh doanh âm nhạc xưa, những nghệ sĩ này đã sống trong một thế giới khác với những nghệ sĩ chuyên nghiệp. Họ chơi tại các quán bar địa phương và bán một số ít các đĩa CD mà họ đã thu âm tại một phòng thu địa phương.

Giờ đây, họ sử dụng các công cụ dành cho những nhà sáng tạo, đúng như những người chuyên nghiệp và có âm nhạc của họ cũng như những nghệ sỹ chuyên nghiệp xuất hiện trên cùng một nền tảng. Điều này có vẻ ấn tượng khi những người nghiệp dư chơi trong cùng một giải đấu với những người chuyên nghiệp, nhưng không phải vậy!

Vấn đề là nếu họ đủ tài năng, làm những điều đúng đắn và thu hút khán giả, thì họ có thể tham gia giải đấu đó, nhưng chỉ có 0,05% các nghệ sĩ nghiệp dư làm được như vậy.

Ước mơ ngoài tầm với

Có những giấc mơ dường như có thể chạm tới dễ dàng nhưng bằng cách nào đó giấc mơ không bao giờ nằm trong tầm tay. Trớ trêu thay, cảm xúc đó lại là mảnh đất màu mỡ cho sự bất mãn và oán giận sinh sôi. Các thành phần của ngành kinh doanh âm nhạc, như nghệ sĩ, nhà phân phối kỹ thuật số, dịch vụ phát trực tuyến, công cụ dành cho người sáng tạo, phải có bản lĩnh để vượt ra ngoài phạm vi kinh doanh hiện tại về ước mơ của nghệ sĩ.

Khắc phục vấn nạn về tiền bản quyền phát trực tuyến sẽ không thay đổi mọi thứ. Ngay cả khi tăng gấp đôi tỷ lệ tiền bản quyền, 100.000 lượt phát trực tuyến vẫn chỉ tạo ra 1.000 USD cho một nghệ sĩ độc lập. Trong khi đó, các dịch vụ phát trực tuyến sẽ mất 40 xu trên mỗi USD kiếm được và số tiền đó chỉ là để trang trải tỷ lệ bản quyền, tức là thậm chí không tính đến những thứ như có sản phẩm, nhân viên, văn phòng, tiếp thị hoặc điều hành hoạt động khác.

Cuộc chiến tìm kiếm thu nhập

Tiền bản quyền phát trực tuyến sẽ không bao giờ tăng lên đối với hầu hết các nghệ sĩ độc lập. Và đây không chỉ là vấn đề của các nghệ sĩ tự phát hành: hầu hết các nghệ sĩ sẽ không bao giờ được trả đủ tiền từ việc phát nhạc trực tuyến và việc cố gắng đòi tiền bản quyền phát trực tuyến ở thời đại hiện nay gần như vô vọng. Trước tình cảnh này, doanh nghiệp âm nhạc cần xây dựng các nguồn doanh thu phụ trợ cho những người sáng tạo âm nhạc. Có rất nhiều các làm, chẳng hạn như bán dịch vụ viết bài hát trên Soundbetter; Bán dịch vụ đăng ký trên Twitch; Bán nhạc miễn phí bản quyền trên Artlist; Bán đăng ký nghệ sĩ trên Vòng kết nối của người hâm mộ….

Các hãng thu âm, quản lý, nhà phân phối, dịch vụ phát trực tuyến và các công ty cung cấp công cụ sáng tạo đều cần đầu tư vào việc giúp nghệ sĩ của họ xây dựng cơ sở người hâm mộ và thu nhập trên các nền tảng đó. Khoản đầu tư này mang lại thu nhập cho người sáng tạo sẽ đảm bảo họ có thể tiếp tục tạo ra thứ âm nhạc thúc đẩy các mô hình kinh doanh mà hầu hết những người sáng tạo riêng lẻ không và không thể làm được.

Tuy nhiên, thị trường cũng cần một thứ gì đó hơn thế nữa – một chất keo nền tảng gắn kết sự sáng tạo, khán giả và tiêu dùng với nhau. Việc một nghệ sĩ âm nhạc kiếm tiền khác với việc một người phát trực tiếp trò chơi. Người phát trực tiếp trò chơi tạo, phát trực tiếp, tìm và kiếm tiền từ khán giả của họ trên một nền tảng (ví dụ: YouTube hoặc Twitch). Tuy nhiên, một nghệ sĩ âm nhạc tạo ra âm nhạc trên một nền tảng, đưa nó đến một nền tảng khác để phân phối, sau đó đưa nó vào các nền tảng phát trực tuyến nơi nghệ sĩ không có mối quan hệ trực tiếp với khán giả của họ.

Nhà xuất bản ảo “mọc lên như nấm”: Tác giả loay hoay tìm giải pháp bảo vệ bản quyền sách trên mạng

Nhà xuất bản ảo “mọc lên như nấm”: Tác giả loay hoay tìm giải pháp bảo vệ bản quyền sách trên mạng

Bùng nổ nạn sách giả trên mạng Internet

Sách và các tác phẩm văn học hiện được phân phối trên thị trường dưới hai hình thức sách giấy truyền thống và sách điện tử. Hiện sách giấy vẫn chiếm phần lớn thị phần của thị trường sách nhờ trải nghiệm chân thật, sự tập trung, gần gũi và mùi thơm của giấy. Sự xuất hiện của sách điện tử (dưới định dạng ebook, sách nói…) là tất yếu đi cùng với sự phát triển như vũ bão của công nghệ thông tin. Sự ra đời của các thiết bị và phần mềm đọc sách như Kindle, Sony Reader, Nook… khiến người đọc ngày càng có xu hướng chuyển dịch sự lựa chọn của mình sang sách điện tử.

Theo Cục Xuất bản, In và Phát hành (Bộ Thông tin và Truyền thông), kết thúc năm 2019, ngành xuất bản Việt Nam đã xuất bản 33.000 cuốn sách với 400 triệu bản, tổng doanh thu đạt 2.600 tỷ đồng. Trong đó, xuất bản phẩm điện tử đạt trên 2.400 cuốn với 1,5 triệu lượt truy cập, tăng 25 lần về số cuốn, 5 lần về lượt truy cập so với năm 2018.

Sách điện tử ngày càng phổ biến

Ngay từ khi mới xuất hiện, sách điện tử đã được đón nhận nồng nhiệt và trở thành phương thức tiếp cận tri thức không thể thiếu bởi những lợi ích: Mang theo bất cứ đâu, số lượng kho sách khổng lồ, trọng lượng nhẹ, không hỏng, hay đánh mất… Dù vô cùng tiềm năng và đi đúng theo xu hướng của thế giới nhưng thị trường sách điện tử Việt Nam vẫn còn rất nhiều rào cản khiến nó chưa thể phát triển mạnh mẽ. Một trong những rào cản lớn nhất vấn nạn sách lậu tràn lan cả ở các hiệu sách truyền thống, cũng như trên môi trường mạng.

Vấn nạn xâm phạm tác quyền tại Việt Nam diễn ra ngang nhiên, phổ biến và nghiêm trọng. Một số cá nhân, tổ chức tự in sách của các nhà xuất bản (NXB) chính thống chuyển thành phiên bản ebook và đưa lên mạng chia sẻ miễn phí, thậm chí là chào bán có thu phí. Vấn nạn vi phạm bản quyền sách trên mạng đã bị phát hiện từ nhiều năm nay. Cụ thể, năm 2016, Cục An ninh Văn hóa Thông tin và Truyền thông (Bộ Công an) cho biết, trên mạng có khoảng 10 NXB “ảo” chuyên phát hành, ngang nhiên công khai chào bán ebook. Theo các quy định của pháp luật, các NXB này đang phạm pháp.

Sách điện tử ngày càng được ưa chuộng so với sách giấy

Trên thế giới, tháng 9/2009, CNN đưa tin, cuốn sách The Lost Symbol (Biểu Tượng Thất Truyền) của tác giả Dan Brown ra mắt tại Mỹ dưới định dạng điện tử trên trang Amazon. Số lượt mua sách tăng chóng mặt và mở ra kỳ vọng mới vào thị trường sách điện tử. Nhưng chỉ trong vài ngày, các bản lậu miễn phí xuất hiện tràn lan trên các trang Rapidshare hay BitTorrent với hơn 100.000 lượt tải xuống. Vi phạm bản quyền số, trước đây giới hạn trong ngành âm nhạc và điện ảnh, nay lan sang ngành xuất bản sách.

Dù biết sản phẩm của mình có thể dễ dàng sao chép nhưng các NXB vẫn chấp nhận hoạt động này và mở rộng ấn bản điện tử bởi đây là xu hướng chung và doanh thu quá hấp dẫn. Amazon cho biết, người sử dụng Kindle mua sách trung bình nhiều hơn 3,1 lần các khách hàng mua sách truyền thống. Tại Việt Nam, nếu đạt 20% thị phần, doanh thu sách điện tử của ngành xuất bản được kỳ vọng cán mốc 1.000 tỷ đồng trong tương lai gần.

Các NXB phải dùng giải pháp công nghệ để bảo vệ mình

Các nhà xuất bản “ảo” mọc lên như “nấm sau mưa” và ngang nhiên vi phạm pháp luật. Thế nhưng đối phó với những NXB “ảo” này không hề dễ. Đánh sập NXB “ảo” này thì các NXB “ảo” khác lại mọc lên. Đại diện một NXB chính thống từng chia sẻ, do bị sao chép, làm giả nhiều ebook nên NXB này có thời điểm phải “đại hạ giá” ebook còn 5.000-10.000 đồng/bản, thậm chí 1.000 đồng/bản và chấp nhận bù lỗ.

Với sách giấy, theo Nghị định 159/2013 quy định hành vi in lậu, in giả từ 300 bản trở lên sẽ bị phạt từ 20-30 triệu đồng. Với chế tài còn nhẹ nhàng như vậy, các đơn vị sách giả có thể thoả sức tung hoành bởi “cùng lắm” bị phạt 30 triệu đồng.

Các NXB chỉ còn biết tích cực tuyên truyền, trông chờ vào ý thức của độc giả, nhưng thực ra việc chờ người dùng có ý thức là điều không hiệu quả trong phòng chống vi phạm bản quyền.

Các NXB gặp rất nhiều khó khăn trong việc bảo vệ bản quyền sách

Nhờ sự phát triển của công nghệ, Việt Nam hiện đã có giải pháp giúp các nhà xuất bản chủ động bảo vệ mình trước vấn nạn vi phạm bản quyền sách điện tử. Công ty Cổ phần Truyền thông Đa phương tiện Thủ Đô (Thudo Multimedia) là công ty công nghệ đi tiên phong phát triển giải pháp bảo vệ bản quyền nội dung số đạt chuẩn toàn cầu (với tên thương mại là Sigma Multi-DRM).

Sigma Multi-DRM là giải pháp bảo vệ bản quyền Make in Vietnam được vinh danh tại Giải thưởng Chuyển đổi số Việt Nam 2020. Sigma Multi-DRM đã vượt qua những bài kiểm định gắt gao của Cartesian – tổ chức uy tín hàng đầu thế giới, tuân thủ hoàn toàn các yêu cầu bảo mật của các nhà sản xuất nội dung lớn, giảm thiểu rủi ro về vấn nạn ăn cắp bản quyền nội dung trên mạng.

Về giải pháp ngăn chặn vấn nạn xâm phạm bản quyền trên môi trường mạng, ông Nguyễn Ngọc Hân – Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Truyền thông Đa phương tiện Thủ Đô chia sẻ: “Về bản chất, Sigma Multi-DRM thay thế khả năng kiểm soát bản quyền vốn đã rất thụ động và kém hiệu quả từ chính người chủ sở hữu nội dung kỹ thuật số và đặt nội dung kỹ thuật số đó dưới sự kiểm soát của một chương trình máy tính.”

Sơ đồ giản lược cách thức sản phẩm Sigma Multi-DRM bảo vệ bản quyền nội dung số

Với giải pháp Sigma Multi-DRM, máy chủ thư viện sách điện tử sẽ mã hoá nội dung, hạn chế quyền truy cập, sao chép và in tài liệu của người dùng dựa trên các ràng buộc do người giữ bản quyền của nội dung đặt ra.

Như vậy, các nhà xuất bản có thể yên tâm những sản phẩm trí tuệ của cả một tập thể được an toàn dưới sự dòm ngó của đơn vị phân phối sách lậu.

VTVcab ON đạt 8 triệu lượt tải: Bất ngờ của làng giải trí số Việt

VTVcab ON đạt 8 triệu lượt tải: Bất ngờ của làng giải trí số Việt

Trong thời đại Internet bùng nổ, việc những thế hệ Millennials, GenZ “ăn ngủ” cùng smartphone, máy tính bảng, smart TV…đã tạo ra sự thay đổi lớn trong phương thức tiếp cận thông tin và giải trí.

Theo báo cáo Cục Phát thanh Truyền hình & Thông tin điện tử (PTTH&TTĐT – Bộ TT&TT), năm 2020, cả nước có 35 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền với 13,8 triệu thuê bao phát sinh cước phí hàng tháng. Doanh thu năm 2019 của toàn thị trường truyền hình trả tiền tại Việt Nam ước đạt 8.600 tỷ đồng. Trong đó, lượng thuê bao truyền thống của ngành truyền hình tăng trưởng chậm ở mức 5-6% và doanh thu cũng chậm không kém 6-7%. Các con số trên cho thấy, thị trường truyền hình truyền thống về cơ bản đã dần bão hòa.

VTVcab ON có mặt thị trường OTT vào tháng 7/2019

Ngược lại, truyền hình Internet OTT (Over The Top –ứng dụng và dịch vụ cung cấp nội dung cho người sử dụng dựa trên các nền tảng Internet) có tốc độ tăng trưởng như vũ bão tại Việt Nam. Thống kê của Cục PTTH&TTĐT cũng cho thấy, số thuê bao sử dụng ứng dụng OTT phát triển với tốc độ hơn 50%/năm và không ngừng gia tăng. Tổ chức nghiên cứu Muvi đưa ra dự báo doanh thu thị trường OTT Đông Nam Á giai đoạn 2020-2021 có thể đạt đến mức 650 triệu USD/năm.

Chiếc bánh OTT béo bở trị giá hàng trăm triệu USD khiến hàng loạt doanh nghiệp cả nội lẫn ngoại đều “thèm khát”. Trên thị trường OTT diễn ra cuộc chiến khốc liệt nhằm giành miếng bánh của riêng mình. Việt Nam hiện có 35 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ phát thanh và truyền hình trả tiền. Trong đó, 20 doanh nghiệp cung cấp dịch vụ nội dung truyền hình trên Internet. Nổi bật lên trong số các doanh nghiệp này phải kể đến VTVcab ON.

VTVcab ON là ứng dụng cung cấp dịch vụ xem truyền hình trực tuyến và video theo yêu cầu được phát triển bởi VTVcab và Công ty cổ phần Truyền thông Đa phương tiện Thủ Đô. Ứng dụng VTVcab ON chạy trên 4 nền tảng: Smart TV, Smart Phone, Android box và website.

Mới ra mắt vào thời điểm 25/07/2019, chỉ sau chưa đầy 2 năm, VTVcab ON đã trở thành 1 hiện tượng trong làng giải trí số. VTVcab ON hiện đã có gần 8 triệu lượt tải (mobile 3,5 triệu và Smart TV 4,3 triệu), lượng người sử dụng hàng tháng khoảng 500.000 người. Bình quân mỗi ngày có khoảng 1 triệu lượt xem trên ứng dụng. Đây là một con số bất ngờ đối với một dịch vụ OTT nội địa.

VTVcab ON chạy đồng nhất với chất lượng cao và rõ nét trên 4 nền tảng: Smart TV, Smart Phone, Android box và website

Lý giải cho thành công đặc biệt của VTVcab ON phải kể đến nội dung trên các kênh và VOD (mảng nội dung theo yêu cầu) đầy đủ, đặc sắc và đa dạng bậc nhất tại Việt Nam. Số kênh truyền hình trên hệ thống VTVcab ON lên tới 200 kênh. Duy nhất trên VTVcab ON có đầy đủ các nhóm kênh theo vùng miền như nhóm kênh SCTV, nhóm kênh Vĩnh Long, nhóm kênh HTV, nhóm kênh truyền hình của từng địa phương,… đáp ứng toàn diện nhất nhu cầu của mọi khán giả.

VTVcab ON sở hữu rất nhiều VOD mua độc quyền và tự sản xuất với hàm lượng sáng tạo cao. Hàng nghìn nội dung về thể thao, phim bom tấn Hollywood, Hàn Quốc, Trung Quốc, sự kiện hot, hoạt hình, gameshow thiếu nhi… được cập nhật tới từng phút với hơi thở của thời đại. Các nội dung này đều được kiểm duyệt kỹ càng (đặc biệt là nhóm kênh thiếu nhi), mua và bảo vệ bản quyền hợp pháp bằng công nghệ bảo vệ bản quyền số Sigma Multi-DRM – một giải pháp đã được Catersian chứng nhận đạt chuẩn bảo mật toàn cầu.

Những sự kiện thể thao đỉnh cao trên thế giới như giải đấu bóng đá La Liga, Bundes Liga, Ngoại hạng Anh, UEFA Champion League, giải quần vợt ATP… được VTVcab ON truyền hình trực tiếp mượt mà với độ trễ cực thấp – chỉ 3s so với mức 30-70s của các dịch vụ truyền hình OTT khác, ghi điểm mạnh mẽ tới khách hàng và thu hẹp khoảng cách giữa truyền hình OTT với truyền hình số DVB-T2.

VTVcab ON có số lượng kênh truyền hình và video theo yêu cầu đặc sắc và đầy đủ bậc nhất trên thị trường OTT Việt Nam

Khách hàng sử dụng dịch vụ có thể xem các nội dung trên VTVcab ON đồng nhất với chất lượng cao và rõ nét trên các nền tảng: Smart TV, Android TV box, Website.

Trong một thị trường OTT còn non trẻ, đặc biệt đang bị tác động tiêu cực của nạn vi phạm bản quyền, trốn thuế, rất cần có thêm những ứng dụng nội dung số có nội dung chất lượng cao, chuyên nghiệp, kiểm duyệt kỹ càng, tuân thủ đúng luật pháp Việt Nam như VTVcab ON.

Chỉ có dùng công nghệ mới ngăn chặn được nạn “ăn cắp” chất xám công khai trên mạng

Chỉ có dùng công nghệ mới ngăn chặn được nạn “ăn cắp” chất xám công khai trên mạng

Tâm lý nghe nhạc miễn phí sẽ giết ngành công nghiệp âm nhạc

Nhiều năm về trước, hàng trăm website nhạc số rầm rộ ra đời và chừng ấy số lượng website đóng cửa. Lý do là bởi nạn xem đĩa CD lậu, nghe và tải nhạc “chùa” trực tuyến. Thời điểm đó, không mấy khán giả nghĩ tới việc bỏ tiền túi hàng tháng cho món ăn tinh thần này. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, đĩa CD lậu đã lỗi thời nhưng vi phạm bản quyền nhạc số (cụ thể là nghe và tải nhạc “chùa”) vẫn ăn sâu bám rễ vào một bộ phận khán thính giả.

Theo Liên đoàn Công nghiệp Ghi âm Quốc tế (IFPI), vi phạm bản quyền nhạc số trên mạng có nhiều hình thức. Bao gồm: Tạo các cơ sở dữ liệu âm nhạc trên các website hoặc các giao thức truyền dữ liệu FTP (File Transfer Protocol); tải lên và tải xuống file nhạc qua các nhóm trên Internet hoặc chia sẻ nhạc qua mạng lưới ngang hàng Peer-to-peer (P2P). Hành vi vi phạm bản quyền gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới tất cả các bên tham gia sản xuất âm nhạc bao gồm: ca sĩ, nhạc sĩ, nền tảng cung cấp nhạc có bản quyền.

Trang nhacso.net đóng cửa sau 10 năm hoạt động

Khán giả không chịu bỏ tiền nghe nhạc, nền tảng nhạc số không có nguồn thu, nhạc sĩ không có nhuận bút, ca sĩ thể hiện không có tiền. Tất cả các bên tham gia vào quá trình sản xuất và phân phối nhạc đều không sống nổi bằng nhạc số. Trên thế giới, trước đây, ca sĩ, nhạc sĩ sống chủ yếu bằng việc bán đĩa nhạc vật lý và sau này là nhạc số. Còn ở Việt Nam, ca sĩ sống bằng việc đi diễn tại các phòng trà, nhãn hàng, show âm nhạc. Một nhạc sĩ đã phải thốt lên rằng làm nhạc ở Việt Nam như “làm từ thiện”.

Các website nhạc số không chỉ trông chờ vào nguồn thu từ phí dịch vụ hàng tháng của khách hàng. Website nhạc số yêu cầu trả phí đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam là nhacso.net. Năm 2005, nhacso.net là nền tảng có bản quyền đầu tiên ra đời. Đây là dấu mốc quan trọng trên thị trường nhạc trực tuyến trong nước. Nhưng sau hơn 10 năm hoạt động, tháng 10 năm 2016, website này đã chính thức đóng cửa. Sự kiện này cho thấy các website muốn sống tốt bằng nguồn thu trả phí là rất khó khăn và để thay đổi thói quen nghe nhạc “chùa” thực sự không dễ dàng.

Những tia sáng trên thị trường nhạc số

Sau nhiều năm, thị trường nhạc số đã bắt đầu có những vệt sáng. Sự chuyển mình, dù còn chậm, nhưng rất tích cực. Điểm sáng đầu tiên phải kể đến là sự lên tiếng của nhiều nghệ sĩ về vấn nạn bản quyền. Điển hình là ca sỹ Mỹ Tâm, nữ ca sĩ gốc Đà Nẵng rất quyết liệt trong vấn đề bảo vệ bản quyền tác phẩm của mình.

Cô thắng thắn chia sẻ với báo chí: “Bản thân tôi thấy các trang nhạc online Việt Nam hiện tại không coi trọng bản quyền của nghệ sĩ. Tôi rất buồn khi phải chứng kiến điều này khi mình đang sống trong thời đại văn minh. Vì vậy tôi chấp nhận là người duy nhất đứng ngoài việc này chứ không đồng tình đi theo cái sai được dù có thế nào“.

Nữ ca sĩ Mỹ Tâm tiên phong trong bảo vệ bản quyền âm nhạc

Tất nhiên, không phải nghệ sĩ nào cũng có lượng người hâm mộ hùng hậu, tên tuổi đã thành thương hiệu và vị trí vững chắc như Mỹ Tâm để có thể nói không với nghe và tải nhạc lậu. Nhiều nghệ sĩ, đặc biệt là các ca sĩ trẻ, vẫn phải dựa vào các website nghe nhạc miễn phí để quảng bá sản phẩm của mình đến với công chúng. Dù vậy, đây vẫn là tín hiệu rất tích cực và cần lan toả nhiều hơn nữa.

Điểm sáng thứ hai là sự xuất hiện của các ông lớn trong lĩnh vực phân phối nhạc số như Spotify và Apple Music tại Việt Nam. Apple Music xuất hiện tại Việt Nam sớm hơn (năm 2015) nhưng chưa thực hiện tạo được dấu ấn rõ nét trên thị trường như Spotify (xuất hiện ở Việt Nam năm 2018).

Spotify thổi làn gió mới vào thị trường nhạc số trả tiền của Việt Nam

Spotify là ứng dụng nghe nhạc số, ra mắt lần đầu tại Thụy Điển năm 2008. Ứng dụng sở hữu hơn 40 triệu bài hát đều có bản quyền. Theo Wikipedia, kết thúc năm 2020, Spotify có hơn 345 triệu người dùng thường xuyên, trong đó gồm 155 triệu người dùng trả phí. Nền tảng này phân chia khoảng 70% tổng doanh thu cho người sở hữu bản quyền nội dung. Spotify nổi trội so với nhiều trang web nhạc số nội địa khác bởi âm nhạc chất lượng cao, có bản quyền, giao diện đơn giản, thuật toán cá nhân hoá danh sách phát nhạc và phí hàng tháng khá thấp, chỉ 59.000 đồng. Sự xuất hiện của các nền tảng nghe nhạc nước ngoài đã thổi làn gió mới cho thị trường nhạc số Việt Nam.

Công nghệ sẽ giải quyết triệt để vấn nạn vi phạm bản quyền

Những dấu hiệu tích cực như có nhiều nghệ sĩ lên tiếng, các nền tảng nước ngoài tham gia thị trường Việt Nam đã phần nào góp phần giảm bớt vấn nạn vi phạm bản quyền. Tuy vậy, nếu chỉ trông chờ vào các yếu tố này thì chưa đủ bởi việc tìm kiếm, nghe và tải nhạc số “chùa” vẫn còn quá dễ, quá tiện.

Trước thực trạng vi phạm bản quyền nội dung trên không gian mạng, ngày càng tinh vi và khó kiểm soát, vào cuối năm 2020 Cục Phát thanh, truyền hình và thông tin điện tử, Bộ Thông tin và Truyền thông đã công bố đang triển khai phối hợp cùng các đơn vị khác để thành lập Trung tâm bảo vệ bản quyền nội dung số, nhằm bảo vệ bản quyền nội dung trên môi trường số. Cuộc chiến bản quyền sẽ là cuộc chiến lâu dài, thế nên việc bảo vệ bản quyền sẽ cần sự phối hợp khăng khít giữa các cơ quan quản lý nhà nước.

Dự kiến trong quý II/2021, Trung tâm bảo vệ bản quyền nội dung số sẽ được thành lập. Trung tâm mới được kì vọng sẽ bảo vệ bản quyền một cách hiệu quả, đảm bảo công bằng cho các đơn vị sản xuất nội dung.

Tuy nhiên, bên cạnh sự quyết liệt của các cơ quan chức năng thì chính các đơn vị sở hữu bản quyền cũng cần nỗ lực tìm kiếm phương án để chủ động ngăn chặn vấn nạn vi phạm bản quyền.

Ông Nguyễn Ngọc Hân, Tổng giám đốc Thudo Multimedia

Bên cạnh những hỗ trợ từ chính sách của cơ quan nhà nước, thì hiện nay đã có những giải pháp công nghệ cho phép các nhà sở hữu nội dung có thể chủ động chọn cho mình những giải pháp phù hợp để bảo vệ “đứa con” của mình.

Ông Nguyễn Ngọc Hân – Tổng Giám đốc Công ty CP Truyền thông Đa phương tiện Thủ Đô (Thudo Multimedia) chia sẻ: “Các đơn vị sản xuất và phân phối nội dung cần chủ động bảo vệ thành quả lao động của mình trên môi trường số. Hiện chúng tôi đã phát triển giải pháp công nghệ Make in Vietnam với tên gọi Sigma Multi-DRM giúp các nhà sản xuất và phân phối nội dung số bảo vệ bản quyền. Hệ thống Sigma Multi-DRM lý tưởng bảo đảm được tính linh hoạt, hoàn toàn minh bạch với người dùng và những rào cản phức tạp để ngăn chặn việc sử dụng bản quyền trái phép.”

Sigma Multi-DRM là giải pháp bảo vệ bản quyền Make in Vietnam được vinh danh tại Giải thưởng Chuyển đổi số Việt Nam 2020. Sigma Multi-DRM đã vượt qua những bài kiểm định gắt gao của Cartesian – tổ chức uy tín hàng đầu thế giới, tuân thủ hoàn toàn các yêu cầu bảo mật của các nhà sản xuất nội dung lớn, giảm thiểu rủi ro về vấn nạn ăn cắp bản quyền nội dung trên mạng.”

Bảo vệ bản quyền vẫn luôn là vấn đề khiến các nghệ sĩ trăn trở. Giải pháp bảo vệ bản quyền bằng công nghệ giúp các nghệ sỹ tập trung toàn bộ tâm huyết vào sản xuất âm nhạc, đảm bảo nhận về những giá trị đúng với chất xám bỏ ra.